Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 22, Chúa Nhật 27.8.2006


MỤC LỤC 

Perfectae Caritatis Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu            Vatican 2

Người tu sĩ SỐNG ĐỨC VÂNG PHỤC                                                                             GSVN

THỐNG NHẤT ĐỜI SỐNG                                                            + Gm. Phaolo Bùi Văn Đọc

LINH MỤC LÀ AI?                                                 Linh Mục Giuse Vũ Đức, Tuyên Úy VAMC

Phát ngôn viên                                                                              Lm. Phêrô Nguyễn Khảm

XIN CHO DÀI LÂU                                                                       Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP.

CÁI GÌ CÓ THỂ “ĐIỀU KHIỂN” THIÊN CHÚA?                                         Lm. Vũ Xuân Hạnh

VÀO ĐỜI…                                                                           Lm. Anphong Trần Đức Phương

HÃY VẼ TÌNH YÊU CỦA CHÚA                                                         Phó tế GB. Nguyễn Định

 “XIN CHO CON BIẾT LẮNG NGHE...”                                                                     Lm. Lê Quang Uy, DCCT

Yếu Tố Xã Hội với Sức Khỏe                                                                Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức


Perfectae Caritatis

Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu

LTS :

Kính thưa Quí vị,

Bốn mươi năm sau Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước hết là sắc  lệnh PRESBYTERORUM ORDINIS, về chức vụ và đời sống các linh muc, đã được phổ biến bởi Đặc San GSVN từ số 8 đến số 21. Và bắt đầu từ số 22, GSVN sẽ phổ biến dần dần về Sắc lệnh Perfectae Caritatis, về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu

(Bản dịch của GHHV Pio X, 1975)

Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu

Việc theo đuổi Đức Mến trọn hảo qua các lời khuyên Phúc âm, Thánh Công Đồng trước kia, trong Hiên Chế Ánh Sáng Muôn Dân đã từng nêu rõ đó là công cuộc bắt nguồn từ giáo lý, và gương của Thầy Chí Thánh, được tỏ hiện như là dấu chỉ thật sáng chói của Nước Trời, Giờ đây Thánh Công Đồng muốn bàn về đời sồng và kỷ luật của các hội dòng có hội viên khấn giữ trinh khiết, khó nghèo và vâng lời, cũng như tiên liệu những nhu cầu của các hội dòng ấy theo những đòi hỏi của thời hiện đại.

Ngay từ thời sơ khai của Giáo Hội, đã có những người nam cũng như nữ, qua việc thực thi các lời khuyên Phúc âm, quyết tự nguyện theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người khắng khít hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sồng tận hiến cho Thiên Chúa; trong số đó có nhiều người được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, hoặc đã theo đuổi đời sống cô liêu tịch mạc, hoặc đã lập ra những dòng tu mà Giáo Hội đã hài lòng dùng quyền của mình đề đón nhận và phê chuẩn. Từ đó, bởi thánh ý Thiên Chúa, nảy sinh lạ lùng không biết bao nhiêu hội dòng khác nhau, đã mưu ích nhiều đến nỗi nhờ đó Giáo Hội chẳng những được trang bị đầy đủ hầu thi hành mọi việc thiện (x. 2 Tim 3, 17) và sẵn sàng chu toàn nhiệm vụ kiến tạo Thân Thể Chúa Kitô (x. Eph 4, 12) mà còn được con cái tô thắm bằng những ân huệ khác nhau để như một hiền thê trang điểm xinh xắn ra mắt lang quân mình (x . Kh 21, 2) lại nhờ đó mà đức khôn ngoan muôn mặt của Thiên Chúa được tỏ hiện (x. Eph 3, 10).

Chính giữa biêt bao ân huệ khác nhau ãy, kẻ được Thiên Chúa gọi thực hành và quyết tâm khấn giữ trung thành các lời khuyên Phúc âm, đều hiến thân cho Chúa cách đặc biệt, noi theo Chúa Kitô, Đấng khiết trinh và khò nghèo (x. Mt 8, 20; Lc 9, 58), bởi vâng lời Chúa cho đến chết trên thập giá (x. Ph 2, 8), đã cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Được thúc đẩy như thế bởi đức mến mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng  (x. Rm 5, 5), họ càng ngày càng sống cho Chúa Kitô và Thân Thể Người là Giáo Hội (x: Col 1 ,24). Bởi vậy, họ càng nồng nàn kết hiệp với Chúa Kitô bao nhiêu qua sự dâng mình gồm trọn cả cuộc sống, thì đời sống Giáo Hội càng phong phú hơn và việc tông đồ của Giáo Hội càng dồi dào mãnh liệt hơn bấy nhiêu.

Nhưng để giá trị trổi vượt của cuộc đời thánh hiến bởi khãn giữ các lời khuyên và để nhiệm vụ khẩn thiết của đời sống ấy trong hoàn cảnh hiện tại mưu cầu lợi ích lớn lao hơn cho Giáo Hội, Thánh Công Đồng này quy định những điểm sau đây liên quan đến các nguyên tắc tổng quát nhằm thích nghi canh tân đời sống và kỷ luật các dòng cũng như các tu hội có đời sống chung mà không lời khấn và cả các tu hội triều, dù mỗi thứ vẫn giữ tính chất riêng biệt của mình. Còn các tiêu chuẩn riêng để trình bày và áp dụng cách thích ứng các nguyên tắc chung ấy sẽ được những cơ quan thẩm quyền hậu Công Đồng quy định.

Còn tiếp

VỀ MỤC LỤC

Người tu sĩ SỐNG ĐỨC VÂNG PHỤC.

       

Người ta hỏi một em nhỏ :

- Cháu muốn gì bây giờ ?

Em nhỏ trả lời ngay :

- Cháu muốn làm người lớn ?

Người ta hỏi tiếp :

- Tại sao cháu lại muốn làm người lớn ?

Em nhỏ đơn sơ trả lời :

- Cháu muốn làm người lớn để được thoải mái nằm ngủ nướng mà không bị gọi dậy đi lễ, để được vô tư chửi tục mà không bị la mắng, như…bố cháu ấy!

Câu trả lời của em nhỏ, tuy ngây ngô, nhưng cũng phản ảnh được phần nào ước vọng của con người, đó là muốn có tí chức, tí quyền để được ra lệnh và không phải vâng phục.

Phải chăng đây cũng chính là một cơn cám dỗ mà con người thường gặp phải ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày xưa nơi vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã bị cám đỗ muốn được trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã không vâng lời Ngài, giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi phải cúi đầu lãnh nhận án phạt của đau khổ và chết chóc.

Trong hoang địa, Chúa Giêsu cũng đã bị cám dỗ về hai vấn đề này.

Trước hết, đó là về khát vọng quyền bính. Phúc âm kể lại :

“Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông." Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi." (Lc 4,5-8).

Tiếp đến, đó là về sự không vâng phục. Phúc âm cũng kể lại :

“Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá." Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi."(Lc 4,9-12).

Ngày nay, mỗi khi mùa tranh cử trở về, người ta nhao nhao chạy đua vào dinh tổng thống, vào thượng viện, vào hạ viện cũng như vào bất kỳ chức vụ nào. Người ta tranh giành nhau chiếc ghế này hay chiếc ghế nọ. Chẳng hạn mới đây, tại Mỹ, hàng trăm người đã ra ứng cử để chiếm lấy chức thống đốc bang Cali. Cuối cùng, chiếc ghế này đã rơi vào tay Arnol Schwarzenegger, một tài tử cơ bắp nổi tiếng với những phim đấm đá.

Sở dĩ như vậy, quyền hành thường đi đôi với bổng lộc, có quyền thì thường cũng có tiền. Và hơn thế nữa, người có quyền thường ra lệnh và truyền khiến, chứ ít khi phải vâng lời, đúng như Chúa đã diễn tả :

"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,42-43).

Trong khi đó, người môn đệ của Đức Kitô, dấn thân vào nếp sống tu trì, không được trôi theo dòng chảy, trái lại phải đi ngược với những trào lưu trên  bằng cách thực thi tinh thần  vâng phục.

Như vậy, sống vâng phục phải chăng là sự ngược đời thứ ba mà người tu sĩ cần phải tuân giữ trong cuộc sống của mình ?     

VÂNG PHỤC THEO CÁI NHÌN CỦA CHÚA

Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy : sự vâng phục không phải chỉ là điểm nổi bật nhất trong cuộc sống của Ngài, mà hơn thế nữa, sự vâng phục còn chính là phong cách của bản thân Ngài.

Thực vậy, Thánh Phaolô đã viết :

“Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con. Trước hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.” (Dt 10,5-9).

Chính Ngài cũng đã xác quyết :

“Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi.” (Ga 6,38).

Chính vì thế, chúng ta có thể nói được rằng nỗi ưu tư số một của Ngài ở trần gian là chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ở mọi nơi và trong mọi lúc,  Ngài đều vâng phục và Ngài có thể nói với chúng ta, như xưa Ngài đã từng nói với các môn đệ bên bờ giếng Giacóp  :

"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4,34).

Để thi hành thánh ý Chúa Cha, cũng như chu toàn công việc Chúa Cha đã trao phó, Ngài đã vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse trong suốt quãng đời ẩn dật. Thánh Luca đã đúc kết về khoảng thời gian ấy như thế này :

“Sau đó, Ngài đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài.” (Lc 2,51).

Sự vâng phục này là yếu tố rõ ràng nhất tượng trưng cho tất cả cuộc hành trình của Ngài ở trần gian.

Trong những năm sống công khai, để thi hành thánh ý Chúa Cha cũng như chu toàn công việc Chúa Cha trao phó, Ngài đã hiến trót thân mình để rao giảng Tin mừng và huấn luyện các môn đệ,  không nề hà gian nan và thiếu thốn, vất vả và mệt nhọc.

Khi đến giờ thử thách quyết  liệt nhất, lúc phải đối đầu với cái chết, trước những nhục nhã và đớn đau chồng chất, tâm hồn Ngài như bị giằng co xâu xé, bản tính nhân loại của Ngài đã lo lắng và run sợ, đến nỗi mồ hôi máu chảy ra và nhỏ xuống đất, khiến Ngài như muốn tháo lui:

"Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con.” (Mc 14,36).

Tuy nhiên, liền sau đó ý thức về sứ mạng của mình trỗi dậy và  Ngài đã kêu lên :

“Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." (Mc 14:36).

Cuối cùng, Ngài đã uống cạn chén cứu độ và đã hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng với cái chết tủi nhục trên thập giá bằng một tình yêu vô hạn.

Thánh Phaolô đã diễn tả một cách tuyệt vời về sự tự hạ và vâng phục của Đức Kitô trong bức thư gửi tín hữu  Philippê như sau :

“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Pl 2,6-11).

Sự vâng phục của Ngài là một sự vâng phục hoàn toàn tự nguyện, như lời Ngài đã xác quyết:

“Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được." (Ga 10,17-18)

Đức Kitô hoàn toàn tự do khi chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ngài tự  nguyện chấp nhận cái chết trên thập giá để yêu thương và cứu chuộc nhân loại.   

LỜI MỜI GỌI SỐNG VÂNG PHỤC

Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ ngày xưa cũng như mời gọi chúng ta hôm nay :

“Anh em hãy hãy học với tôi…” (Mt 11,29).

Dĩ nhiên, chúng ta có thể và cần phải học hỏi nơi Chúa Giêsu rất nhiều bài học khác nhau, thế nhưng bài học đầu tiên và quan trọng nhất chính là bài học vâng phục. Cũng chính trong chiều hướng ấy, người tu sĩ tuyên khấn tuân giữ đức vâng phục trong hội dòng của mình.

Có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ :

"Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24).

Theo tôi nghĩ ba lời khấn của người tu sĩ : khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục cũng chỉ là việc thực hiện tinh thần từ bỏ Chúa đòi buộc những người muốn bước theo Ngài mà thôi.

Trước hết, từ bỏ tiền bạc để sống một cuộc sống khó nghèo đã là một việc khó khăn, khả dĩ làm tan nát cõi lòng, bởi vì “đồng tiền thì liền với khúc ruột”.

Tiếp đến, từ bỏ những tình cảm riêng tư, những gắn bó với người chúng ta thương mến để sống một cuộc sống độc thân, thuộc trọn về Chúa, đã là một việc khó khăn hơn, khả dĩ làm héo hắt tâm can, bởi vì tình yêu thì gắn liền với con tim,  như Trịnh Công sơn đã diễn tả :

“Tình yêu như trái phá con tim mù lòa…tình yêu như đuốc sáng con tim tật nguyền”.

Thế nhưng, từ bỏ tiền bạc vật chất và từ bỏ người mình yêu thương gắn bó, vẫn còn là  một việc tương đối dễ dàng, bởi vì tiền bạc vật chất và người mình yêu thương gắn bó, dẫu sao cũng chỉ là những đối tượng ở bên ngoài chúng ta.

Trong khi đó, từ bỏ chính mình với những ý nghĩ, những ước muốn riêng tư để chu toàn thánh ý Thiên Chúa, một phần nào được biểu lộ qua những lệnh truyền của bề trên, mới thực sự là một vệc cam go, bởi vì những ý nghĩ và những ước muốn riêng tư ấy đã bén rễ sâu trong tâm hồn. Ngoài ra, nhiều khi nó còn làm nên cá tính và con người, làm nên cái “mình” của chúng ta. Vì thế,  đánh bật được gốc rễ của nó không phải là chuyện dễ dàng một chút nào.

Hơn thế nữa, Đức Kitô là đường, (Ga 14,6), con đường một chiều dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa, nguồn sự thật và sự sống. Vì thế, chúng ta cần phải vâng phục Ngài nếu muốn đến với Chúa Cha.

Đức Kitô là ánh sáng, (Ga 8,12), thứ ánh sáng gìn giữ chúng ta khỏi lầm lạc. Vì thế, chúng ta cần phải vâng phục Ngài, nếu không muốn bước đi trong tăm tối.

Do đó, muốn theo Đức Kitô và trở nên môn đệ của Ngài, chúng ta cần phải từ bỏ chính mình. Sự từ bỏ này có nhiều mức độ khác nhau. Phần đông người ta chỉ bằng lòng từ bỏ bằng cách xa tránh tội lỗi, khước từ những vui thú vẩn đục và bất chính, miễn cưỡng chấp nhận những tai ương hoạn nạn không tránh khỏi mà thôi.

Tuy nhiên cũng có những người theo sát bên Chúa một cách hoàn thiện hơn, bằng việc từ bỏ chính mình.

Họ hiểu rằng được độc lập và tự do, thực hiện những điều mình mong ước là một cách khẳng định mình chính xác nhất, cũng như là một cách đứng trên đôi chân của mình.

Nhưng đồng thời họ cũng hiểu rằng sự từ bỏ chính mình để vâng phục và làm theo ý người khác,  là một việc rất cam go, nhưng lại vô cùng quí giá, nhất là khi người ta biết từ bỏ chính mình vì những mục đích siêu nhiên.

Ngoài ra, họ cũng hiểu rằng Chúa Giêsu rất mong muốn có nhiều môn đệ thực thi sự từ bỏ chính mình bằng cách chọn lựa bậc sống tự nguyện vâng phục, để bắt chước chính sự vâng phục của Ngài, hầu hoạt động hăng say như Ngài để làm vinh danh Cha trên trời.

 Chính vì muốn đáp lại lời mời gọi âm thầm của Đức Kitô, cũng như  để được trở nên giống Ngài, Đấng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá, mà trong hội dòng, các tu sĩ tuyên hứa lời khấn vâng phục.

Công đồng Vaticanô II đã viết như sau :

“Theo gương Đức Kitô, Đấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha (x Ga 4,34; 5,30; Đúng thế 10,7; Tv 39,9), “tự nhận thân phận tôi tớ” (Phải 2,7) và đã học tập đức vâng lời với những điều phải chịu đựng (x Đúng thế 5,8). Cá tu sĩ, được Chúa Thánh Thần thúc đảy, lấy đức tin tùng phục các vị bề trên, đại diện Thiên Chúa, và nhờ các ngài hướng dẫn, họ phục vụ mọi anh em trong Đức Kitô, như chính Đức Kitô, vì tuân phục Chúa Cha, đã phục vụ anh em và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (x Mt 20,28; Ga 10,14-18). Như thế, họ được liên kết chặt chẽ hơn với sứ mệnh phục vụ của Giáo hội và nỗ lực đạt đến mức tuổi sung mãn của Đức Kitô (x Eph 4,13).” (DT  14).   

ĐỨC VÂNG PHỤC CỦA NGƯỜI TU SĨ.

Khi tuyên hứa lời khấn vâng phục, người tu sĩ dâng hiến trọn vẹn ý chí cùng với những khả năng hoạt động của nó, để  tuân phục các bề trên chính thức của hội dòng trong tất cả những điều các vị ấy truyền dạy, miễn là phù hợp với qui luật và hiến pháp của hội dòng. Công đồng Vaticanô cũng viết :

“Nhờ khấn giữ đức vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn mình như của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của Ngài cách kiên trì và chắc chắn hơn.” (DT 14).

Một trong những hoạt động chính yếu của ý chí là yêu thương. Như vậy, lời khấn vâng phục có một liên hệ chặt chẽ với lời khấn khiết tịnh. Tuy nhiên, trong cuộc sống còn rất nhiều sự việc chúng ta được tự do định đoạt. Và sự định đoạt này liên hệ trực tiếp đến ý chí của chúng ta.

Do đó, khi khấn giữ đức vâng phục, chúng ta dâng hiến cho Thiên Chúa ý chí của chúng ta. Và cùng với ý chí là tất cả những hoạt động trong cuộc sống.

Khi tặng biếu  một cây ăn trái cho người nào đó, chúng ta cũng tặng biếu cho họ tất cả hoa quả mà cây đó sẽ trổ sinh. Cũng vậy, khi dâng hiến cho Thiên Chúa ý chí, xét như là một khả năng hoạt động, chúng ta cũng dâng hiến cho Ngài tất cả những công việc chúng ta làm. Những công việc này là như những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời mỗi người chúng ta, như hoa quả của một cây ăn trái.

Qui luật và hiến pháp của hội dòng chỉ rõ cho chúng ta biết phải vâng phục ai và phải sử dụng khả năng hành động như thế nào.

Trước hết, chúng ta không tuyên hứa vâng phục bất kỳ ai, nhưng tuyên hứa vâng phục những bề trên chính thức, do qui luật và hiến pháp xác định. Công đồng Vaticanô II đã viết :

“Các tu sĩ hãy khiêm tốn vâng phục bề trên của mình theo tiêu chuẩn qui luật và hiến pháp,trong tinh thần tin kính và yêu mến đối với thánh ý Chúa.” (DT 14).

Tiếp đến, chúng ta phải đem trót cả khả năng hành động để phụng sự Chúa và chỉ sử dụng nó vào những mục đích tốt lành và thánh thiện. Tuy nhiên trong khi hoạt động, có rất nhiều việc lành làm cho chúng ta say mê, có rất nhiều mục đích riêng tư chúng ta âm thầm đeo đuổi.

Chính qui luật và hiến pháp sẽ xác định rõ tinh thần của hội dòng chúng ta phải vâng nghe,  những cách sống chúng ta phải thực thi, những mục đích chúng ta phải nhắm tới…Nói tóm lại, chính qui luật và hiến pháp sẽ xác định những giới hạn chúng ta phải tuân giữ, cũng như chỉ rõ phương hướng chúng ta phải theo trong khi hành động.

Thiết tưởng sự vâng phục là một điều rất dễ hiểu, bởi vì con người là một con vật mang tính cách xã hội. Nó không thể nào sống cô độc, lẻ loi. Trái lại, nó sống là sống với người khác trong một cộng đoàn, trong một xã hội.

Xã hội nào, cộng đoàn nào cũng có thể được sánh ví như là  một thân thể. Thân thể nào cũng có một bộ óc để lãnh đạo, chỉ huy và thống nhất toàn thân. Sự sống còn và phát triển của toàn thân tùy thuộc vào sự lãnh đạo sáng suốt của bộ óc, và quan trọng hơn nữa là sự vâng phục của mọi chi thể đối với bộ óc.

Nếu các chi thể không chịu vâng phục lệnh truyền của bộ óc, thì dù bộ óc có lãnh đạo sáng suốt tới đâu, toàn thân cũng không thể tồn tại, thống nhất và phát triển một cách tốt đẹp được. Và các chi thể như thế đương nhiên sẽ không tránh khỏi một số phận hẩm hiu đang chờ đón.

Đối với Giáo hội và hội dòng, sự vâng phục cũng cần thiết như vậy. Không có sự vâng phục, Giáo hội và hội dòng ấy sẽ không thể tồn tại và phát triển tốt đẹp.

Chính vì thế, tất cả những ai muốn tận hiến cho lý tưởng sống trọn lành, cần phải tuyên hứa lời khấn tự nguyện vâng phục, như một nhân đức căn bản của đấng bậc mình. Công đồng Vaticanô cũng xác nhận :

“Đức vâng phục là sức mạnh đặc biệt của thùa tác viên Đức Kitô, Đấng đã dùng sự vâng phục để cứu rỗi nhân loại.” (TD 2).

Như người ta vốn thường bảo :

- Kỷ luật là sức mạnh của quân đội.

Chúng ta cũng có thể nói :

- Đức vâng phục chính là sức mạnh của Giáo hội cũng như của hội dòng.

Trong ba nhân đức của sự trọn lành và của đời sống tận hiến, hai nhân đức khiết tịnh và khó nhèo mang nhiều tính cách cá nhân, nên chúng ta có thể gọi chúng là “tư đức”. Còn nhân đức vâng phục mang nhiều tính cách Giáo hội và cộng đoàn, nên chúng ta có thể gọi là nó “công đức”. Nó là một yết tố quan trọng quyết định sự sống còn của Giáo hội và hội dòng.

Tới đây, chúng ta thấy được rằng cốt lõi của đức vâng phục chính là thánh ý Chúa và tình yêu chúng ta dành cho Ngài.  

Trước hết là thánh ý Chúa.

Trong một nước, quyền lãnh đạo quốc gia được ủy thác cho vị nguyên thủ, là ông tổng thống hay ông chủ tịch. Trên nguyên tắc, mọi người đều phải tuân lệnh vị nguyên thủ đó. Nhưng dân nước thì đông và việc nước thì nhiều, làm sao  vị nguyên thủ đó có thể ra lệnh trực tiếp cho từng người và từng việc ? Ông phải phân quyền cho những người trung gian, đại diện cho ông, như thủ tướng, bộ trưởng, tỉnh trưởng…Ngay cả những người lãnh đạo cấp thấp nhất cũng đều nhận quyền hướng dẫn dân chúng từ vị nguyên thủ. Vì thế, người dân tuân lệnh họ là gián tiếp tuân lệnh vị nguyên thủ, trái lệnh họ là gián tiếp trái lệnh vị nguyên thủ và có thể bị luật pháp trừng trị.

Quyền bính từ Thiên Chúa xuống trên các vị bề trên của chúng ta cũng như thế. Vì vậy, vâng phục cac ngài là vâng phục Chúa, là tuân theo thánh ý Ngài. Mọi hành vi vâng phục, rốt cuộc đều qui về sự vâng phục Chúa, thi hành thánh ý Ngài. Nếu không có mục đích này, thì sự vâng phục đó không phải là nhân đức vâng phục.

Chúng ta cần phân biệt giữa sự vâng phục thông thường và nhân đức vâng phục. Sự vâng phục của tên ăn cướp đối với chủ tướng của hắn không phải là đức vâng phục. Cũng vậy, một tu sĩ vâng phục bề trên chỉ vì sợ hãi, chỉ vì muốn lấy lòng hay muốn được tiếng khen…đều không phải là đức vâng phục. Đức vâng phục đòi hỏi người vâng phục phải có ý hướng muốn thi hành thánh ý Chúa. Thiếu ý hướng này thì hành vi vâng phục không phải là nhân đức vâng phục. 

Tiếp đến là tình yêu đối với Chúa.

Cốt lõi của đức vâng phục là thực thi thánh ý của Chúa. Mà thánh ý Chúa cuối cùng cũng chỉ làm sao để tình yêu được thể hiện, bởi vì như thánh Gioan đã định nghĩa :

“Thiên Chúa là Tình yêu.” (1Ga 4,8).

Vì thế, yếu tố làm cho hành vi vâng phục trở thành nhân đức cũng chính là tình yêu. Hành vi vâng phục nào phản lại tình yêu cũng không phải là nhân đức. Chính trong cái nhìn ấy, thánh Augustinô đã nói :

- Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm.

Nghĩa là : hễ hành động nào do tình yêu sáng suốt thúc đẩy, thì luôn phù hợp với thánh ý Chúa. Tình yêu luôn là yếu tố quan trọng nhất để làm cho một hành động có giá trị trước mặt Chúa. Thánh Phaolô viết :

“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13,3).

Tương tự như vậy, cho dù tôi có tuân giữ giữ kỷ luật từng ly từng tí như bọn biệt phái ngày xưa, cho dù tôi có thi hành lệnh truyền của bề trên một cách tuyệt đối, nhưng nếu không có tình yêu, thì những hành động ấy chẳng có giá trị bao nhiêu trước mặt Chúa. Ngài thèm lòng chứ đâu thèm thịt, như lời tiên tri Osê đã nói :

“Ta muốn tình yêu chứ đâu muốn lễ tế.” (Mt 12,7; Hs 6,6).

Do đó, vâng phục chỉ thực sự là nhân đức khi có tình yêu đối với Chúa bên trong. Người tu sĩ, một khi đã tuyên khấn tuân giữ đức vâng phục, thì trọn cuộc sống cùng với mọi hành động đều quy hướng về Chúa, thuộc trọn về Ngài và có được một giá trị thiêng liêng to lớn, bởi vì đã được dâng hiến cho Ngài.  

KẾT LUẬN

Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện  như sau :

Chị Josepha vào dòng tu. Ngày kia, chị nghe Chúa hỏi :

- Con có yêu Cha không ?

Chị trả lời :

- Lạy Chúa, con yêu Chúa lắm.

Chúa hỏi tiếp :

- Con làm thế nào để tỏ cho Cha biết là con yêu Cha lắm ?

Chị trả lời :

- Con sẽ vâng lời một cách vui vẻ.

Ngày nọ, mẹ bề trên sai chị đi kiếm củi để nấu bếp. Đang khi còn  dùng dằng một chút, thì chị bỗng nghe Chúa phán :

- Này con, dù thích hay không, con cũng hãy làm tất cả vì lòng yêu mến Cha.

Từ đó, mỗi lần cảm thấy cái ách vâng phục đè nặng,  chị liền nhớ tới lời Chúa đã dạy :

- Dù thích hay không, con cũng hãy làm tất cả vì lòng yêu mến Cha.

Câu chuyện trên làm tôi nhớ tới lời Chúa đã phán :

  - Vâng lời trọng hơn của lễ.

Lời phán dạy của Chúa, phải chăng cũng chính là sự ngược đời mà người tu sĩ cần phải thực thi và sống trong suốt cả cuộc đời của mình.

GSVN.

VỀ MỤC LỤC
THỐNG NHẤT ĐỜI SỐNG

 

Thống nhất đời sống là gì ? Tại sao phải thống nhất đời sống ? Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống : tư tưởng, lời nói, việc làm.

Chúa Kitô là đầu mối thống nhất cho đời sống Kitô hữu. Chúa Thánh Thần là giây liên kết đưa tới thống nhất. Mục tiêu cuối cùng của đời sống Kitô hữu là chính Thiên Chúa.

1/. Cần thiết phải có sự thống nhất đời sống :

Trên bình diện vật lý, sinh lý, tâm lý, siêu hình, siêu nhiên, chết là một sự tan rã.

Thiên Chúa là Đấng kêu gọi thực tại từ hư vô đến hiện hữu, từ không đến có, cũng mời gọi tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là con người hướng về sự duy nhất trong Chúa Kitô.

Đối với con người sống là trở nên một, dù đã là một. Thống nhất đời sống là làm cho mọi thực tại trong đời sống trở nên một. Điều này không phủ nhận tính đa dạng của cuộc sống. Cuộc sống của con người có nhiều mặt, nhiều cấu tố, nhiều dữ kiện, nhiều biến cố. Nhưng tất cả đều đan kết với nhau và làm nên một cuộc đời duy nhất.

Cuộc đời duy nhất ấy có thể được nhìn như một toàn thể hay như một sự trải dài của kiếp người. Duy nhất không đi ngược với đa dạng, nhưng hàm chứa đa dạng, hoặc qui tụ, kết hợp và biến đổi cái đa dạng. Điều đó chỉ có thể xảy ra khi có một nguyên lý duy nhất hoá. Nguyên lý ấy là chính bản thân con người, là một chủ thể ngã vị có ý chí và tự do. Tuy có bị ảnh hưởng nặng nề bởi nguyên tội, chủ vị tự do của con người không hoàn toàn hư hỏng.

Trên một bình diện khác, không chỉ một mình bản thân con người là nguyên lý duy nhất hoá. Còn có một Ngã Vị Tuyệt Đối khác, nội tại trong con người hơn chính con người, là Nền Tảng cho sự thống nhất đời sống của con người. Con người chỉ thống nhất trọn vẹn với chính mình khi nên một với Thiên Chúa. Con người chỉ là chính mình trọn vẹn trong tương quan tình yêu với Thiên Chúa.

Đời sống không thống nhất là đời sống tan rã thành nhiều mãnh vụn, và cuộc đời tan nát là cuộc đời bất hạnh. Trong thực tế không có cuộc đời nào là hoàn toàn tan rã, dù là cuộc đời đau khổ nhất. Sự tan rã toàn diện chỉ có khi con người chết, không những trên bình diện thể lý, mà cả trên bình diện tâm linh: con người hoàn toàn xa lìa Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.

2/. Thống nhất cuộc đời bằng mục tiêu sống :

Khả năng tập trung sức lực trong hành động phần lớn tuỳ thuộc vào mục tiêu của hành động. Mục tiêu hành động càng chi phối con người nhiều chừng nào, thì sức lực con người càng được tập trung nhiều chừng ấy. Mục tiêu càng sáng tỏ và càng được ái mộ, thì hành động của con người càng dễ dàng và phấn khởi. Bản chất và các đặc điểm của mục tiêu xác định bản chất và các đặc điểm của hành động. Và những gì khẳn định về hành động có thể ứng dụng cho cuộc sống nói chung.

a. Mục tiêu hướng ngã :

Thống nhất đời sống là làm cho mọi chi tiết của đời sống xây dựng bản thân con người. Trên một bình diện nhất định, mọi điều con người làm, mọi lời con người nói, mọi sự kiện xảy ra đều ít nhiều có lợi hay có hại cho con người. Nếu khát vọng triển nở, con người nỗ lực làm cho mọi sự góp phần xây dựng bản thân. Vì cuộc đời của con người thường khá phức tạp, nên muốn thống nhất đời sống cách hữu hiệu và sinh động, cần có một bậc thang giá trị đúng đắn, cần xác định điều quan trọng nhất đối với mình là gì.

b. Mục tiêu hướng tha :

Mục tiêu hướng tha cũng là một đầu mối thống nhất đời sống, đặc biệt đối với những người chọn lý tưởng phục vụ. Con người có thể trao dồi chính mình về nhiều mặt, để có thể có thêm khả năng phục vụ tha nhân.

Mục tiêu hướng tha và hướng ngã không xung khắc, nhưng có quan hệ hỗ tương: con người cần triển nở để phục vụ tốt, và nhờ phục vụ mà con người triển nở. Nhiều khi đối tượng phục vụ trở thành động cơ thống nhất đời sống, ví dụ việc phục vụ khoa học, phục vụ bệnh nhân, phục vụ người nghèo… Khát vọng phục vụ là một động cơ hữu hiệu để thống nhất đời sống.

c. Mục tiêu hướng thượng :

Đối với người Kitô hữu, mục tiêu hướng ngã và hướng tha đều nhằm hướng thượng. Người Kitô hữu làm mọi sự nhằm đẹp lòng Thiên Chúa. Con người Kitô hữu triển nở làm vinh danh Thiên Chúa, và phục vụ mọi người theo ý của Thiên Chúa.

Trong khi hướng thượng, người Kitô hữu gặp lại chính mình và tha nhân. Tình yêu đối với Thiên Chúa vừa là đầu mối, vừa là động cơ thống nhất mọi chi tiết trong đời sống một cách hữu hiệu và sống động.

3/. Thống nhất đời sống nhờ tinh thần cầu tiến :

a. Sự cầu tiến của con người rất đa dạng mà vẫn duy nhất :

Sự cầu tiến là bước đầu tiên và quan trọng cho một đời sống thống nhất và sinh động. Vươn lên là lẽ sống vừa căn bản, vừa thực tế của cuộc đời con người. Sống mà không vươn lên, ít nhất về một vài mặt, giống như là không sống. Do đó tinh thần cầu tiến không là một xa xỉ phẩm, một trang trí cho cuộc đời, mà là một yếu tố cơ bản làm thành cuộc sống. Cầu tiến là một hướng đi chung cho mọi người. Cầu tiến giống như nhựa sống chảy xuyên suốt trong con người vật chất và tinh thần, con người tự nhiên và siêu nhiên.

Sự cầu tiến vừa là một khuynh hướng thống nhất, vừa rất đa dạng, giống như chính bản thân con người, vừa phức tạp vừa đơn sơ duy nhất. Sự đa dạng nhằm phục vụ sự duy nhất. Trong đà sống vươn lên, mọi người đều cần có nhiều hơn để hiện hữu viên mãn hơn. Có nhiều hơn thuộc khía cạnh đa dạng, hiện hữu viên mãn hơn là khía cạnh duy nhất. Muốn thống nhất cái đa dạng, phải luôn ý thức mục tiêu của nó là làm cho con người sống viên mãn hơn.

b. Sự cầu tiến vừa nhằm toàn diện vừa nhằm thực tế :

Vì tinh thần cầu tiến nhằm sự triển nở của con người, nên nó vừa nhằm toàn diện vừa nhằm thực tế chủ quan cũng như khách quan.

Sự cầu tiến nhằm toàn diện, vì con người là một toàn thể không được cắt xén. Con người không thể hy sinh tình cảm để cho trí tuệ triển nở, cũng như không thể hy sinh lý trí để cho tình cảm đưa dẫn tới những bờ cõi vô định. Con người không coi thường đời sống vật chất, nhưng không hy sinh đời sống tâm linh, để được dồi dào về vật chất. Con người cũng không thể hy sinh các giá trị đạo đức để phát triển một số tài năng.

Sự cầu tiến phải nhằm thực tế chủ quan và khách quan: con người không hoàn toàn như nhau trên lĩnh vực sở hữu, mà chỉ bằng nhau trên bình diện hiện hữu, bình diện nhân vị. Do đó tinh thần cầu tiến phải thực tế. Bằng không con người sẽ mất nhiều thì giờ, đôi khi mang nhiều ảo tưởng và chuốc lấy thất vọng.

c. Mặt ngầm và nổi của cuộc sống :

Cuộc sống con người có những mặt ngầm lẫn mặt nỗi. Cả hai mặt duy nhất với nhau làm thành một cuộc đời. Cuộc đời giống như một thân cây hút các chất dinh dưỡng khác nhau từ mãnh đất là môi trường sống. Môi trường có vai trò rất quan trọng, nhưng nếu cây không có khả năng tiếp thu các chất dinh dưỡng, thì sẽ không phát triển. Tiến trình nuôi dưỡng cây là sự qui tụ các chất dinh dưỡng và biến đổi chúng thành nhựa sống. Trên bình diện này, thống nhất đời sống là biến các thứ dinh dưỡng khác nhau thành nhựa sống duy nhất.

Mọi thức ăn đều có thể nuôi dưỡng con người, nếu không là chất độc: một tư tưởng, một lần gặp gỡ, một lời nói, một cử chỉ, một sự kiện… Chỉ sự sống ngấm ngầm nhưng mãnh liệt mới hội nhập được mọi chi tiết của đời sống và biến chúng thành sự sống của chính mình. Nơi người Kitô hữu, sự sống siêu nhiên có sức hội nhập tất cả, thâu kết tất cả, biến đổi tất cả, sử dụng tất cả cho sự triển nở của chính mình.

4/. Thống nhất thời gian sống :

a. Thời gian của con người :

Cuộc sống của con người vừa duy nhất vừa đa dạng. Đa dạng và duy nhất là biện chứng sống và là thực tế. Con người chỉ thực sự triển nở khi biết sống theo biện chứng này: thâu tóm cái đa dạng trong cái duy nhất và trải rộng cái duy nhất ra thành đa dạng.

Cái duy nhất của con người thường trải ra trong không gian và thời gian, qua những sở thích và các việc làm khác nhau tuỳ từng giai đoạn và môi trường. Vấn đề quan trọng là không để cho các giai đoạn khác nhau hoàn toàn tách lìa nhau, và các môi trường khác nhau hoàn toàn biệt lập nhau.

Thời gian của con người không chỉ là những khoảng khắc được xếp kề cận nhau, nhưng là sự trải dài của kiếp người. Nếu thời gian chỉ gồm những mãnh vụn, thì cuộc đời con người không thống nhất, và mang dấu tích của sự chết: là một cuộc sống rã rời, mệt mỏi, vô vị, vô nghĩa, không lẽ sống.

Môi sinh của con người không chỉ là những khoảng không gian ráp nối, không ăn nhập với nhau. Những khoảng không gian của con người là không gian sống, có những quan hệ hữu cơ với nhau, bằng không cuộc sống chỉ là một mãnh đời lăn lóc, vừa bị lôi kéo vừa bị giam hãm. Con người sẽ mất tự do, mất quyền làm chủ bản thân, và nhân vị con người sẽ tan biến.

b. Thống nhất thời gian :

Muốn thống nhất thời gian, con người phải lấy hiện tại làm mốc. Nếu lấy quá khứ làm mốc, thời gian của con người sẽ là thời gian chết, vì quá khứ đã qua đi và không trở lại. Lấy quá khứ làm mốc, con người sẽ bất động và bất lực, chết dần chết mòn vì than khóc và luyến tiếc, con người tiêu hao mòn mỏi chôn vùi cuộc đời trong đống gạch vụn của toà nhà quá khứ.

Lấy tương lai làm mốc, thời gian của con người sẽ là thời gian ảo tưởng, vì tương lai chưa đến. Và bao giờ nó đến, thì không còn là tương lai nữa. Lấy tương lai làm mốc, con người thả mồi bắt bóng, chạy theo ảo tưởng, con người sẽ thất vọng vì không bao giờ thoả mãn, sẽ thiếu bình an nội tâm và phí sức vô ích.

c. Hồi tưởng và dự phóng :

Con người chỉ có thể lấy hiện tại làm giềng mối thống nhất thời gian, vì hiện tại nằm trong tầm tay. Con người là một hữu thể hiện diện, hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai.

Nhờ hồi tưởng hay ký ức, mà con người sống lại quá khứ, sung sướng hãnh diện vì quá khứ, rút kinh nghiệm từ quá khứ. Con người hiện tại hồi tưởng quá khứ vừa thanh luyện, vừa phục sinh quá khứ, biến quá khứ thành sự sống tinh tuyền chảy vào hiện tại và nuôi dưỡng hiện tại. Con người giàu kinh nghiệm và khôn ngoan là con người biết sử dụng quá khứ để nuôi dưỡng bản thân và tha nhân.

Nhờ dự phóng, con người hướng về tương lai mà không ảo tưởng. Con người chuẩn bị cho tương lai dựa vào hiện tại. Con người hiện tại hướng về tương lai là con người thực tế. Cuộc đời con người ấy luôn luôn bắt đầu, mà khởi điểm là hiện tại. Và cuộc đời luôn bắt đầu là một cuộc đời không bao giờ già nua.

Con người hiện tại biết hồi tưởng quá khứ và hướng về tương lai là một con người xây nhà trên đá, không bắt đầu từ số không, không xây dựng trên ảo ảnh. Cuộc sống con người ấy vững chãi, nhưng mở rộng.

+ Gm. Phaolo Bùi Văn Đọc
 

VỀ MỤC LỤC
  LINH MỤC LÀ AI?

 

LTS. Nhân dịp "mùa" Tân Chức, Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam xin kính chúc tất cả các Tân Chức Linh Mục Việt Nam trong và ngoài nước được dồi dào sức khoẻ và tràn đầy hồng ân Thiên Chúa.

Vào hè, các trường Tiểu, Trung, Đại Học đều đóng cửa, học sinh, sinh viên lên đường đi nghỉ. Các Đại Chủng Viện công giáo cũng thế, các Đại chủng sinh cũng từ biệt Đại Chủng Viện, các giáo sư, bạn bè nghỉ xả hơi. Các Đại chủng sinh Thần Học lãnh chức trước khi bãi trường, đặc biệt các Đại chủng sinh năm cuối từ biệt Đại Chủng Viện, giáo sư, bạn bè và không phải trở lại Đại Chủng Viện  mà các Ngài đã sống 7, 8 năm. Các Ngài đã hoàn tất chương trình giáo dục của chủng viện và sẽ nhận chức Linh Mục. Người ta thường gọi là mùa chịu chức. Các Cha Mới mở lễ đầu tay, tạ ơn… nhiều người thắc mắc Linh Mục là ai?

Để trả lời Linh Mục Là Ai? Thì không gì hơn là nhìn thẳng vào Chức Vụ Bản Thân Linh Mục. “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật (Mc 16: 15)”

Dân chúng tụ lại để nghe Chúa giảng, Tin Mừng của Ngài làm tăng số đông nghĩa là đức tin chỉ có khi được nghe, còn điều phải nghe thì do lời Thiên Chúa (Rm 10: 17). Do đó Linh Mục có bổn phận phải thông truyền chân lý Phúc Âm nên khi sống đời Linh Mục là ngài thi hành việc giảng dậy  để loan truyền giáo thuyết của Giáo Hội, là giảng lời Chúa, là mời mọi người tin và nhận lãnh ơn cứu rỗi, qua bí tích để cải thiện và nên thánh, điều này được lưu ý đặc biệt trong phần phụng vụ Lời Chúa khi cử hành phép Thánh Thể. Như vậy trong phụng vụ nhờ bàn tay Linh Mục, phép Rửa đưa người ta về với Chúa, Bí Tích Cáo Giải làm hòa tội nhân với Thiên  Chúa, Bí Tích Xức Dầu xoa dịu nỗi đau của người bệnh, cử hành Thánh Lễ là tiến dâng lễ hy sinh của Chúa Giêsu và dạy tín hữu dâng lên Chúa Cha lễ vật là chính cuộc sống của họ. Ngoài ra Ngài còn dạy Giáo dân tham dự các giờ phụng vụ khác để giúp họ cầu nguyện chân thành.

Ngài còn thi hành chức vụ của Chúa Kitô là đầu và là chủ chăn, Ngài nhân danh Giám Mục tụ họp gia đình Thiên Chúa như một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, trong việc đoàn tụ này Linh Mục theo gương Chúa đối xử nhân hậu với mọi người như luật đòi buộc của đời sống Kitô hữu, Ngài nhấn mạnh khi thuận lợi, lúc bất tiện, khi khiển trách, lúc đe dọa, khuyến khích với tất cả lòng nhẫn nại để chỉ bảo dậy dỗ (2 Tim 4: 2) giúp giáo dân đạt tới sự trưởng thành Kitô Giáo, nghĩa là giúp họ sáng suốt nhận định ý Chúa trong các biến cố lớn nhỏ, việc phải làm điều phải thực hiện và dậy họ không chỉ sống cho mình mà còn phải theo đòi hỏi của luật Bác Ái.

Tuy mắc nợ mọi người  nhưng Linh Mục đặc biệt phải săn sóc người nghèo khó và yếu đuối cũng như không được quên thanh thiếu niên mà phải ân cần chỉ dẫn thăm viếng an ủi nghĩa là phải lưu ý chú tâm đến tất cả cộng đồng nhất là các dự tòng và tân tòng họ phải được giáo dục dần dần để hiểu biết và sống đời Kitô hữu, mà muốn thế thì phải thi hành việc bác ái thể hiện tương trợ trong cộng đoàn như sinh hoạt truyền giáo hình thức minh chứng Thiên Chúa .

Để thi hành một trách vụ cao cả như thế Linh Mục phải là người được tuyển chọn và hỗ trợ.  “Chính Thày đã chọn các con và sai các con đi (Gio 15: 16). Ơn gọi là một sáng kiến của Chúa mà chúng ta biết qua Cựu Ước cũng như Tân Ước. Trong Giáo Hội Linh Mục được kêu mời và tuyển chọn dể nối dài sự hiện diện của Chúa Kitô và chu toàn sứ mạng đã nhận trong Giáo Hội bởi sự đặt tay của Giám Mục trong thánh lễ phong chức mà chúng ta thấy sáng hôm qua để chuyển ban Thần Khí của Thiên Chúa. Được Chúa kêu mời và tuyển chọn nên Linh Mục phải là người của Chúa, trọn vẹn thuộc về Chúa và phải làm việc cho Chúa. Nói cách khác ưu tư số một của Chúa là việc tuyển chọn các Linh Mục để từ đó Linh Mục làm cho người ta suy nghĩ về Chúa và tìm gặp Ngài.

Bấy giờ các ông bỏ mọi sự mà theo Ngài (Lc 5: 11)

Được Chúa kêu mời nhưng quan trọng là chính Linh Mục biết đáp lại mời gọi ấy, bằng chọn lựa và cộng tác. Thánh Augustinô đã nói “Khi tạo dựng chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến nhưng để cứu chúng ta Ngài  cần chúng ta ưng thuận và cộng tác bởi vì chính Chúa cũng không thể cứu vớt những ai không muốn. Một khi đã tin theo Đức Kitô đáp lời mời gọi thì chính là lúc Chúa Chọn, mà sự lựa chọn nào cũng có hai khía cạnh: TỪ BỎ và CHẤP NHẬN, từ bỏ những gì ngược với thánh ý Chúa, chấp nhận những gì Ngài dậy, đúng hơn sứ vụ của Linh Mục là một nhiêm vụ dù có chức thánh và dù có quyền bính nào đi nữa thì quyền bính ấy cũng phải được xử dụng để phục vụ theo gương Chúa Giêsu: “Ngài đã qùy xuống rửa chân cho các môn đệ”.

Trong thư luân lưu năm 2005 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã khẳng định: “Linh Mục hưởng một số đặc quyền nào đó giữa các tín hữu hay một số việc nơi nhà cầm quyền nhưng Linh Mục phải nhớ rằng những đặc quyền ấy phải được khôn khéo xử dụng và nhằm lo thăng tiến phần rổi các linh hồn (salus animarum) và nhớ Chúa Kitô mới thật sự là đầu của Dân Chúa nên phải hướng người tín hữu về với Chúa Kitô chứ không để họ gắn bó với cá nhân Linh Mục. Cho dù hoàn cảnh bên ngoài có thay đổi thì đời sống Linh Mục vẫn phải trung thành là trở nên giống Chúa Kitô. Nói cách khác Linh Mục phải là hình ảnh sống động và trong suốt của Đức Kitô, vì chủ chăn nhân lành đã đến để phục vụ đàn chiên “Các Linh Mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Kitô vị mục tử nhân từ và tối cao bằng cách noi theo lối sống của Chúa, là nên giống Ngài ở giữa dân chiên được trao phó cho mình.

Đức Kitô đã yêu và phó mình cho Giáo Hội để thánh hóa Giáo Hội (Eph 5:25- 26) nên Linh Mục khi nhận lãnh sứ mạng trong Giáo Hội thì phải thao thức, làm việc và phục vụ Giáo Hội vì Linh Mục là tôi tá  của Giáo Hội nên có bổn phận phải làm cho dân Chúa sống thánh thiện và vì là mục tử nên  Ngài phải hiến tất cho bày chiên. Mục tử nhân lành hiến mạng sống vì bày chiên (Gioan 10: 11)

Trong tông huấn Pastores Dabo Vobis Đức Kitô được diễn tả như mục tử tối cao nhất là với vai trò hướng dẫn và chăm sóc bày chiên Linh Mục là hiện thân của Chúa Kitô, mục tử, điều này không chỉ nói lên sự liên lạc đặc biệt giữa Chúa Kitô và Linh Mục mà còn nói lên sự liên hệ gắn bó giữa Linh Mục và đàn chiên đã được trao phó vì không có đàn chiên  thì đâu cần đến mục tử.

Nhưng Linh Mục làm gì cho bày chiên?

Theo thư luân lưu “Linh Mục và ngàn năm Kitô giáo thứ ba” của bộ giáo sĩ thì Linh Mục Chính là:

-         Thày dậy lời Chúa tuy sách vở cũng như nhờ internet các bài giảng, suy niệm lời Chúa được coi như món ăn liền, có khắp nơi nhưng Linh Mục mắc nợ lời Chúa đối với dân Ngài nên cần các Linh Mục giảng dạy vì thế các Ngài phải suy gẫm cầu nguyện để việc giảng lời Chúa có sức lôi cuốn và hấp dẫn.

-         Thừa tác viên của Bí tích, tham dự vào sứ mạng của Đức Kitô là nuôi dưỡng đàn chiên và đưa họ tới sự thánh thiện nhưng đặc biệt Linh Mục phải lưư ý bí tích thánh thể và hoà giải là phương thế căn bản đưa người tín hữu tới Thiên Chúa.

-         Đức Kitô  là mục tử đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và đức bác ái đòi buộc Linh Mục phải hết lòng phục vụ đàn chiên, phó mình bằng cách hiện diện hiểu biết đàn chiên và từng con chiên nhờ cảm thông chia sẻ những ưu tư âu lo của họ dể rồi dẫn họ về với Chúa chứ không tạo sự gắn bó cho cá nhân Linh Mục, đồng thời Linh Mục vẫn phải giữ tinh thần thừa sai không chỉ lưu tâm săn sóc đàn chiên được trao phó tại địa phương mà còn phải hướng về thế giới Giáo Hội hoàn cầu nữa.

Nhận sứ mạng Linh Mục nhưng Ngài không được đem ra ngoài thế gian ngược lại được giữ trong thế gian để sống với đàn chiên của mình: “Họ ở trong thế gian….con không xin Cha cất họ ra khỏi thế gian (Gio 17: 11-15) Linh Mục là người đang sống trong thế giới hôm nay và trong thế gian này đang có những bước tiến khổng lồ về mọi phương diện nên Linh Mục cần biết thế giới để hướng dẫn cộng đoàn, dĩ nhiên không đòi các Ngài phải là chuyên viên nhưng phải biết xử dụng những thành quả của khoa học kỹ thuật để hổ trợ  cho việc rao giảng  và chuyển đạt tin mừng cũng như thâu tích cho mình những tư liệu cần thiết. Nghĩa là bước vào thế kỷ 21, Linh Mục có bổn phận  loan Báo Tin Mừng cho những người của thế kỷ này vì thế các Ngài phải cố gắng ra khơi bằng những phương tiện hôm nay nếu không sẽ bị tụt hậu, đè bẹp và kết qủa của công việc sẽ chẳng tới đâu.

Dù làm tất cả trong thế gian và  cho mọi người nhưng Ngài không thuộc về thế gian. Được quyền tuyển chọn từ loài người và thiết lập vì loài người và Linh Mục sống với mọi người như anh em nên giống họ trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi nhưng vì sứ vụ nên Linh Mục không sống theo thế gian nghĩa là Linh Mục là người không thuộc về thế gian “Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian (Gio 17: 16)” vì thế gian ngăn cách giàu nghèo, định sai giá trị con người, dửng dưng với tôn giáo, xa lìa Thiên Chúa và Giáo Hội, chối từ tha nhân, không chầp nhận khổ đau và thánh giá. Còn Linh Mục, là thừa tác viên, có bổn phận phải phục vụ, là Mục tử, Linh Mục phải hy sinh và hiến mạng sống cho đàn chiên nhưng vẫn chỉ là đầy tớ vô dụng của Chúa. Hơn nữa dựa trên chứng từ đời sống bản thân, con người thời nay thích nhìn các chứng tích hơn là nghe giảng dạy, mà nếu họ nghe là vì người dậy là chứng nhân.

Với sự trợ giúp của ơn Chúa với sự cố gắng của bản thân, Linh Mục trở nên muối ướp thức ăn, men làm dậy bột và là ánh sáng của đêm tối. Nên Linh Mục ngày nay (thế kỷ 21) là người sống trong thời đại tân tiến nên không nhiều thì ít phải mang dấu ấn thời đại, đón nhận những thách đố những xu hướng để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, tôi luyện bản thân để việc hướng dẫn đàn chiên được thành quả tốt đẹp.

Nhưng xu hướng ấy, thành quả ấy là gì?

Thời đại của khoa học, và kỹ thuật trong nhiều lãnh vực nhưng ở đây chỉ đề cập đến truyền thông và sinh học cũng đủ làm chứng. Như mạng internet, hay sinh sản vô tính đang nảy sinh nhiều nghi vấn trong luân lý và đạo đức.

Thời buổi toàn cầu hóa, chữ toàn cầu hóa đã chiếm lãnh mọi phương tiện thông tin quần chúng.

Thời buổi tục hóa đòi Linh Mục phải quan tâm và tôn  trọng giá trị nhân bản, Chúa đến không chỉ mang cho nhân loại đạo làm người  mà thôi nếu chủ trương như vậy thì sẽ thấy số người rửa tội, dự lễ, lãnh nhận Bí tích giảm sút sống hờ hững tôn giáo, cuối cùng sẽ bỏ đạo, bỏ Thiên Chúa.

Rồi từ đó người ta chỉ biết có mình, sống cho mình dù với những phương thức truyền thông hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa, con người vẫn cô đơn, xa cách ngay trong những gặp gỡ của mình.

Chỉ sống cho mình, nên người ta chạy theo  vật chất, lợi nhuận và hưởng thụ, coi nhẹ tôn giáo, bởi vì bỏ ăn uống mới chết chứ bỏ lễ nào có hệ gì! người ta bắt đầu cảm thấy sợ tha thứ, sợ đau khổ, sợ chết. Hưởng thụ được khích lệ, người ta mua sắm không vì nhu cầu mà dể thỏa mãn thị hiếu, một thị hiếu đã bị chi phối bởi những hình ảnh quảng cáo, vì thế trước những thách đố của thời đại, Linh Mục phải biết nhận thực và dựa trên Tin Mừng để phân biệt tốt xấu. Tuy tất cả là hồng ân nhưng xu hướng nào cũng có hai mặt nên Linh Mục phải biết xử dụng phương tiện hiện đại để đem lại thành quả tốt đẹp cho dân Chúa, hơn nữa chính Linh Mục phải biết Thiên Chúa điều khiển những bước đi của lịch sử nhân loại hôm nay và ý thức Linh Mục vẫn được Thượng Đế điều hành nên đừng bỏ hay quên sứ vụ truyền giáo của thế kỹ 21 này.

Nếu hạnh phúc của nhà truyền giáo là được một người rửa tội thì hạnh phúc của Linh Mục chăn đàn chiên là tội nhân được giao hòa, tìm lại ơn tha thứ nguồn vui tâm hồn. Có những hối nhân đã khóc nức nở khi sám hối vì tội của mình khi nhận ra lòng thương của Chúa. Khi thi hành chức vụ cao đẹp ấy, Linh Mục là người diễn dịch lòng yêu thương nhân từ của Chúa, muốn được như thế thì Linh Mục phải sống khả tín và khả ái.

Thật vậy ơn Chúa có thể ban để hoàn tất công trình cứu rỗi qua thừa tác viên bất xứng nhưng thông thường  Ngài muốn thể hiện những việc lạ lùng qua những thúc giục và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, qua sự kết hợp mật thiết với Chúa và bằng đời sống thánh thiện và gương mẫu của Linh Mục.

Nên Linh Mục phải làm hết sức để lòng thương của Chúa sáng lên bởi những hành động của Ngài, nghiêm nhặt qúa sẽ làm dân chúng tháo lui, dễ dàng quá sẽ gây hiểu lầm,, nhưng là theo gương Chúa Giêsu hiền lành diễn đạt đúng mức lòng quảng đại và sự tha thứ hầu mang an bình và chữa lành cho con chiên.

Nhìn chân dung Linh Mục qua thừa tác viên của bí tích hòa giải sẽ thấy nguồn gốc lòng thương xót vô biên của Chúa “ không phải các con chọn Thày nhưng chính  Thày đã chọn các con (Gio 15: 16) Linh Mục là người được sai đi  làm đại diện cho Chúa  dù Linh Mục thấp nhỏ, yếu hèn. Chúa ký thác trái tim đầy yêu thương của Ngài vào trái tim nhân loại Linh Mục đễ ban ơn tha thứ  cho hối nhân. Muốn chu toàn trách vụ Linh Mục cần ký thác trái tim nhỏ bé của mình  vào trái tim thương xót của Thiên Chúa.

Nhưng Linh Mục vẫn là người có xương có thịt không thay đổi sau ngày lãnh chức hay sau thánh lễ Tạ ơn .

Thưa Tân Linh Mục khi nói tới đây con nhớ lại bài hát:

Vì tôi là Linh Mục,

Chung phận kiếp lưu đầy,

Nên suốt đời phiêu bạt

Nên mãi mãi là mây bay…

Rồi câu chuyện “tóc mây” một đề tài nóng bỏng vào thập niên 60-70. Cuốn phim ăn khách Thornbird phát hành tại Úc Châu đã tràn ngập khắp nơi làm rung lên những âu lo khi nhận ra chất người trong Linh Mục.

Người có thể vấp ngã nhung Ngài vẫn phải phấn đấu với chính mình. Linh Mục vẫn là người biết khóc cười, biết đói biết no biết đau khổ cũng đối diện với thời cơ đen tối biết vui mừng biết âu lo sợ hãi và cũng có khuynh hướng, cũng hỉ nộ ái ố.

Chúa Giêsu khi làm người Ngài cũng đã chấp nhận thân phận như vậy, Satan biết thế nên trong sa mạc đã gạ gẫm Ngài bằng những hấp dẫn vật chất quyền hành danh vọng. Kinh Thánh nói rõ “sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma qủy rút lui (Luc 4: 13). Điều đó chứng tỏ cuộc đời của Chúa Giêsu là một phấn đấu bước tới hoặc thụt lui người Linh Mục là một tư tế đã chọn sống kiếp hiến thân để phục vụ trọn vẹn. trong khi có thể chọn cách khác, như bất cứ ai. Vào lúc kết thúc sứ vụ trần gian Đức Giêsu đau thương quằn quại trên thập giá mà vẫn bị cám dỗ là dùng quyền năng xuống khỏi thập giá để thiên hạ thán phục, cơn cám dỗ này giống như cơn cám dỗ trong sa mạc lúc khởi đầu đời công khai, mà người ta gọi là cơn cám dỗ cuối cùng.

Linh Mục cũng không thể đi ra ngoài con đường ấy, cuộc đời Linh Mục là một chọn lựa  giữa những việc của nhân vật TÓC MÂY, ở những kiếm tìm xây dựng và dấn thân bước tới trong lý tưởng, một cuộc phấn đấu không ngừng như lời Thánh Phaolô nhắn gửi giáo dân Do Thái “Linh Mục  là người được chọn giữa người phàm và được đặt làm đại diện cho mọi người để giao tiếp với Thiên Chúa, để dâng lễ vật đền tội. Linh Mục có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc bởi vì chính mình cũng đầy khuyết điểm, yếu đuối, Linh Mục phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào thì cũng phải dâng lễ cho chính mình như vậy (Do Thái 5: 1-5)”

Kính thưa quý vị, NGHĨA VỤ và ĐỜI SỐNG LINH MỤC là thế đó như những BÔNG HỒNG của cây hồng gai.

                                    Thưa Ngài, Cha được chọn (1) giữa muôn người,

                                    Sống cầu nguyện (2) trung thành suốt cuộc đời

                                    Tin Mừng rao giảng (3) phụng vụ ban bí tích

                                    Yêu thương bác ái (4) với mọi người

                                    Đọc lời Chúa (5) suy niệm kiếm ý sâu

                                    Sống tin yêu giúp người (6) trước lo âu

                                    Đồng hành (7) hợp tác với người liên kết

                                    Lớp dân nghèo (8) giữa xã hội thương đau

 

Trọng ý kiến (9) của người cha kết thân

Hòa đồng vui vẻ (10) sống từ nhân

Đáp nhu cầu (11) công bình phục vụ

Dựng cộng đồng (12) dân Chúa Đẹp mọi phần

 

Giữ nhân bản (13) tạo đời sống thiêng liêng

Xây hợp nhất (14) gạt bỏ mối thù riêng

Không biên giới giữa tự do hay khám ngục

Chủ tâm kết lại (15) một đoàn chiên.

 

LINH MỤC là ai? Trả lời một cách ngắn gọn và đầy đủ Ngài là CHÚA KITÔ THỨ HAI (Alter Christus) như thế thưa Cha mới: từ nay Cha là Chúa KITÔ.

Sau cùng con xin thưa, trồng cây thì mong thấy trái, nuôi con thì mong con khôn lớn, thành tài có sự nghiệp, ước nguyện ấy hôm nay đã thành sự thật, chúng con chúc mừng ông Cố của Cha mới, Linh mục nghĩa phụ, xin Chúa trả công và đền ơn vì những hy sinh, cố gắng các đấng đã làm để có ngày hôm nay, ngày mà Thày được chọn làm LINH MỤC của Chúa.

Thành kính chúc mừng và kính chào quý vị.

Linh Mục Giuse Vũ Đức, Tuyên Úy VAMC, Detroit, MI

(mùa Tân chức 2006)

VỀ MỤC LỤC
Phát ngôn viên

 

1. Hình ảnh Phát ngôn viên trong Kinh Thánh

Trong Thánh Kinh, có hai động từ thường được dùng để mô tả công việc của người rao giảng.

Thứ nhất là động từ kerussein (loan báo, công bố). Trong đời sống xã hội, kerussein chỉ hành động loan báo một sứ điệp của nhà vua cho dân chúng. Tương tự như thế, người rao giảng Lời Chúa là người phát ngôn của Thiên Chúa, loan báo sứ điệp Thiên Chúa muốn gửi gắm cho Dân Người: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2Cor 5,20). Trong công việc này, điều quan trọng nhất không phải là làm sao cho sứ điệp hấp dẫn người nghe nhưng là loan báo cách trung thực những gì mà nhà vua muốn chuyển tới dân chúng. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh điều này ở nhiều nơi, ví dụ trong thư 1 Corintô, ngài viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1Cor 2,4).

Thứ hai là động từ euaggelizein (loan báo Tin Mừng). euaggelizein có ý nghĩa đặc biệt là loan tin thắng trận. Trong thời chiến, khi quân sĩ đang giao tranh với quân thù ngoài tiền tuyến, thì tại hậu phương Đức Vua và dân chúng mong ngóng đợi chờ người từ mặt trận trở về báo tin chiến thắng.  euaggelion chính là hành động loan tin thắng trận. Từ Evangelium trong tiếng La tinh hàm chứa ý nghĩa này. Đó là Tin Mừng, là Phúc Am vì đó là lời loan báo Tin Mừng Chúa Kitô chiến thắng nhờ cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Người.

2. Nền tảng thần học

Hàm chứa trong hình ảnh người phát ngôn là hai xác tín căn bản về mặt thần học.

“Tin Mừng mà chúng ta có trọng trách rao giảng cũng là Lời chân lý. Chân lý dẫn đến tự do (x. Ga 8,32) và cũng chỉ có chân lý mới đem lại bình an cho tâm hồn. Đó chính là những điều người ta tìm kiếm khi đến nghe chúng ta rao giảng Tin Mừng. Chân lý về Thiên Chúa, chân lý về con người và số phận huyền nhiệm của con người, chân lý về thế giới. Đó là những chân lý khó khăn mà chúng ta khám phá được nơi Lời Chúa, và chúng ta không phải là chủ, là người sở hữu, nhưng chỉ là người quản lý, người phát ngôn và đầy tớ phục vụ chân lý.

Xác tín thứ nhất: chính Chúa là Chủ sở hữu của Lời, chứ không phải người giảng. Trong dụ ngôn Những tá điền sát nhân (Mt 21, 33-43), tội của những tá điền này không phải là tội lười biếng mà là tội muốn chiếm đoạt quyền sở hữu của chủ: quên đi vị trí, căn tính của mình là tôi tớ, và chỉ muốn tự phong cho mình quyền làm chủ đến độ giết chết con trai ông chủ để chiếm đoạt quyền sở hữu. Đối chiếu với câu truyện Adam và Eva ăn trái cấm, xem ra vẫn chỉ là một dòng chảy và là cơn cám dỗ thường xuyên cho con người, cách riêng trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay. Điểm đáng lưu ý là đối tượng Chúa Giêsu nhắm đến khi kể dụ ngôn này là những người lãnh đạo tôn giáo chứ không phải dân thường (x. Mt 21, 23). Như thế, chính các giám mục và linh mục, những người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn, cần đọc lại dụ ngôn này như lời cảnh giác cho mình.

Xác tín thứ hai là: chỉ có Lời Chúa mới là Chân lý tuyệt đối. Nhận định về những trở ngại cho đức tin trong thế giới ngày nay, Avery Dulles nói đến ba ngăn trở lớn: chủ nghĩa duy lịch sử, chủ nghĩa đa nguyên, và tâm thức thị trường tự do. Trước hết, chủ nghĩa duy lịch sử khiến cho con người không còn chấp nhận có chân lý nào là tuyệt đối, vì mọi sự đều thay đổi, kể cả những xác tín đã cắm rễ thật sâu, nay cũng bị lật nhào. Tiếp đến, các phương tiện truyền thông cho phép người ta tiếp cận vô vàn những tư tưởng khác, từ đó nghĩ rằng đức tin Kitô giáo cũng chỉ là một trong rất nhiều chọn lựa, do đó không mang tính tuyệt đối. Cuối cùng, thế giới hôm nay là thế giới của thị trường tự do. Về mặt tư tưởng cũng thế, tôn giáo và các hệ tư tưởng cũng bị biến thành thị trường cạnh tranh mua bán, và người ta cứ việc mua thứ tôn giáo nào hợp với sở thích của mình.

Trong thế giới đó, hơn bao giờ hết, linh mục phải cùng với thánh Phêrô lập lại lời tuyên xưng: “Thưa Thày, bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thày mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).

3. Hình ảnh phát ngôn viên và những đòi hỏi đối với tác vụ rao giảng Lời Chúa  

Rao giảng Lời Chúa cách trung thực và toàn vẹn

Nếu chân dung của linh mục giảng Lời Chúa được trình bày như người phát ngôn thì hiển nhiên, đòi hỏi quan trọng nhất là người phát ngôn phải làm sao chuyển tải sứ điệp của Thiên Chúa cách trung thực nhất: “Trong mọi trường hợp (sống chứng tá – kerygma – catechesis – nghiên cứu), phận sự của các linh mục không phải là giảng dạy sự thông biết của riêng mình nhưng là giảng dạy Lời Chúa và phải khẩn thiết mời gọi mọi người cải thiện và nên thánh.” Đòi hỏi này đã được nhấn mạnh đặc biệt trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng:

Người ta mong đợi nhà rao giảng Tin Mừng phải tôn trọng chân lý, nhất là các chân lý mà họ đào sâu và truyền đạt không gì khác hơn là chân lý mạc khải, và trên hết mọi sự, đó là một phần của chân lý nguyên thủy tức là chính Thiên Chúa. Do đó, người rao giảng Tin Mừng phải là người dám hy sinh đến độ quên mình, và chấp nhận đau khổ để không ngừng tìm kiếm chân lý mà họ phải truyền đạt cho người khác. Người rao giảng không bao giờ được phản bội hay che đậy chân lý vì muốn làm vui lòng người nghe, vì muốn gây ngạc nhiên, vì muốn tạo nên sự hào hứng, hay vì muốn lập dị, háo danh. Người rao giảng không được chối bỏ chân lý, không làm lu mờ chân lý mạc khải vì lười biếng tìm kiếm, vì ngại phiền phức hay vì sợ hãi. Người rao giảng không được phép khinh thường việc nghiên cứu. Người đó phải phục vụ chân lý cách quảng đại và không bao giờ được phép bắt chân lý phục vụ mình.

Dựa trên giáo huấn trên, có hai nguy cơ mà người rao giảng có thể rơi vào: một là phản bội, hai là che đậy. Phản bội là hoàn toàn đi ngược lại ý muốn của Đấng đã sai ta đi rao giảng. Che đậy là cũng trình bày ý muốn của Đấng sai đi nhưng chỉ là trình bày một phần, không nói hết. 

Đâu là những lý do dẫn đến tình trạng phản bội hay che giấu đó? Đức Phaolô VI đưa ra nhiều lý do về cả ba mặt: tri thức, tình cảm và ý chí. Về mặt tri thức, người rao giảng Lời Chúa có thể phản bội hoặc che đậy Lời Chúa vì lười biếng trong việc học hỏi, tìm kiếm, nghiên cứu. Về mặt ý chí, linh mục có thể phản bội hoặc che đậy Lời Chúa vì những nỗi sợ hãi: sợ làm mất lòng người nghe, sợ những người có quyền lực, sợ bị coi là cổ hủ, lỗi thời. Về mặt tình cảm, đôi khi vì háo danh, vì muốn làm những điều khác lạ, hay vì muốn làm vui tai người nghe, linh mục cũng có thể che đậy sứ điệp toàn vẹn của Lời Chúa. Thay vì công bố Lời Chúa thì chỉ công bố những tư tưởng, giới thiệu những đề tài hoặc kể những chuyện không liên hệ gì đến sứ điệp Tin Mừng. 

Tất cả đều là những lời cảnh giác và nhắc nhở rất cụ thể cho linh mục khi thi hành nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa.

Rao giảng Lời của niềm vui và hi vọng

Cùng với động từ kerussein, Thánh Kinh dùng từ euaggelion để nói đến Tin Mừng mà linh mục có trách nhiệm công bố và giới thiệu. Vì là euaggelion nên lời rao giảng của linh mục phải là lời khuyến khích và nâng đỡ, ban tặng niềm vui và hi vọng. Điều đó không có nghĩa là người rao giảng phủ nhận thực tại của tội lỗi và không biết gì đến biết bao đau khổ đang dày xéo cuộc sống con người, nhưng là đặt tội lỗi trong một viễn tượng lớn hơn của ơn tha thứ và cứu độ, viễn tượng của niềm vui và hi vọng. Khi đối diện với người phụ nữ bị tố cáo đã phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã không phủ nhận tội lỗi chị đã phạm. Ngài nghiêm khắc với tội lỗi nhưng đồng thời ngài không chấp nhận để cho người ta khóa chặt chị lại trong quá khứ của tội lỗi; trái lại ngài tìm cách bảo vệ chị và mở cho chị cánh cửa đi về phía tương lai, tương lai của nếp sống hoán cải, tương lai của ơn tha thứ và hi vọng: “Con hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Đó cũng là thái độ mà linh mục phải mang lấy khi thi hành nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa cho anh em mình. 

Kết luận

Sẽ không phải là thừa nếu nhắc lại ở đây những tâm tình mà thánh Phaolô đã căn dặn người môn đệ thân tín của ngài: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thày này đến thày nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường. Phần anh, hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh” (2Tm 4, 2-5).

Lm. Phêrô Nguyễn Khảm

VỀ MỤC LỤC
XIN CHO DÀI LÂU

 

Phúc Âm Nhật Ký Ngày 20.08.2006

XIN CHO DÀI LÂU

Ga 6:51-58

Vào một ngày đẹp trời, một chiếc xe Limousine bóng loáng tự nhiên chạy đến và đậu ngay trước cửa nhà tôi.  Một chàng trai trong mộng, một người dưng khác họ, bước xuống.  Anh đi thẳng vào nhà và dìu tôi ra xe.  Chúng tôi trực chỉ nhà thờ.  Trước mặt cộng đoàn và linh mục, anh cầm lấy tay tôi và đọc : “Anh nhận em làm vợ và hứa giữ lòng chung thủy với em ... để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh.”  Lời gì mà êm ngọt quá !   Lời hôn ước đó chỉ kéo dài mười lăm giây, nhưng dư âm còn vang vọng cả  cuộc đời.  Hôn ước như thấm vào từng thớ thịt đường gân.   Tôi như run lên.  Niềm vui truyền khắp thân thể.  Tôi cảm thấy tê tê nơi đầu ngón tay và nơi tận con tim.  Nỗi sung sướng chỉ nổi lên ít phút.  Nhưng tôi đã phải trả giá bằng bao nhiêu mồ hôi, nước mắt.

Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy hôn ước của chúng tôi giống giao ước của Chúa quá. Thiên Chúa đã cưới dân Do Thái.  Chúa Giêsu đã chọn Giáo hội làm hiền thê.  Chúa đã phải  trả một giá quá mắc để hoàn thành một giao ước tuyệt vời.  Chúa đã chết để giao ước thành sự thật.  Chết đi để đem lại sự sống cho nhân loại.  Cũng thế, tôi cũng phải “chết” đi mỗi ngày để cho tình yêu triển nở và gia đình vươn lên.  Sự sống thăng hoa ...

Sự sống vô cùng huyền nhiệm.  Nhưng những gì đang xảy ra trong cuộc sống thường phủ che phần huyền nhiệm đó, đến nỗi con người dễ lãng quên hay đánh mất khả năng khám phá độ sâu của sự sống. 

Hôm nay Chúa Giêsu muốn mạc khải một huyền nhiệm còn sâu hơn huyền nhiệm của sự sống tự nhiên.  Ðó là sự sống Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động mãnh liệt trong trần gian.  Không dễ gì nhìn được sự huyền nhiệm siêu việt đó.

Làm sao có thể moi lên tự cõi thẳm sâu của cuộc sống một giá trị và ý nghĩa lớn lao như những thực tại Chúa mạc khải hôm nay ?  Thực tại đó hoàn toàn bị che dấu và đã gây kinh ngạc cho mọi người.  Nhưng sự thật vẫn là sự thật.  Chúa Giêsu trở thành thịt và máu nuôi sống muôn dân trong hiện tại và tương lai vĩnh hằng.[1] 

Trước hết, có thực trong Thánh Thể, Chúa thực sự hiện diện bằng xương thịt như khi Chúa còn sống nơi trần gian không ?  Không !  Vì sự hiện diện ấy luôn mang tính bí tích.  Nói khác, sự hiện diện nóng bỏng đó vẫn bị một lớp vỏ bất động là bánh rượu che phủ bên ngoài.  Tuy thế, cũng không thể nói sự hiện diện đó chỉ có ý nghĩa biểu tượng. 

Vậy Chúa Giêsu có ý gì khi quả quyết : “Ðây mình Thầy.  Ðây máu Thầy”[2]?   Phân tích cú pháp công thức truyền phép, người ta thường khẳng định có Chúa hiện diện thực sự trong Thánh Thể.  Thực tế, trong công thức truyền phép đó, động từ “” không loại trừ ý nghĩa biểu tượng.[3]  Không thể thuyết phục người ta tin nhận thực tại Thánh Thể, qua những cấu trúc ngữ pháp. 

Vậy căn cứ vào đâu để có thể quả quyết Chúa Giêsu hiện diện đích thực bằng Huyết Nhục trong Thánh Thể ?  Nên nhớ, chính Chúa đã quả quyết Thánh Thể là một giao ước mới.[4]  Theo văn hóa Sêmít, muốn lập giao ước, đòi phải có lễ vật thực sự.  Nếu chỉ có những dấu chỉ hay biểu tượng của những lễ vật đó, không thể lập giao ước.[5]  Theo kinh nghiệm bản thân, tôi cũng thấy cả hai đứa chúng tôi phải là những con người thật, hôn ước mới thành sự.  Tôi không thể cầm lấy tay của một tượng đồng hay gỗ để nói lời hôn ước.  Dù tượng đó bằng vàng hay kim cương cũng chẳng giá trị gì đối với lời hôn ước của tôi.  Tương tự, nếu Chúa Giêsu không hiện diện thực sự, Thánh Thể không thể trở thành giao ước nối kết Thiên Chúa với nhân loại. 

Giao ước này chắc chắn phải vượt xa giao ước trong Cựu ước và đưa tất cả những lễ xóa tội thời Cựu ước tới mức viên mãn.[6]  Vì là giao ước, Thánh Thể trở thành nơi Chúa Giêsu dâng hiến chính mình để vinh danh Chúa Cha và cứu độ toàn thể nhân loại.   Sở dĩ Thánh Thể có một năng lực vô cùng lớn lao vì Thần Khí đã biến đổi Mình Máu con người phục sinh của Chúa Giêsu thành của ăn nuôi sống dân Chúa.[7]  Như thế, khi rước Mình Máu Chúa, con người đón nhận vào huyết mạch sự sống Thiên Chúa và trở nên một với Người.  Như thế, Chúa không chỉ hiện diện trong Thánh thể, nhưng trong chính con người đã ăn thịt và uống máu Người.  Sự sống con người được hòa nhập và trở thành một với Chúa.[8]  Không còn phân biệt đâu là Chúa, đâu là dân Chúa nữa.[9] 

Sự sống đó thấm sâu vào tận xương tủy và kéo dài đến đời đời.  Chỉ có sự hiệp nhất viên mãn với Chúa mới có thể giúp tín hữu vượt qua những giới hạn cuộc sống và bảo đảm cho họ sống mãi trong cõi vĩnh hằng.  Nếu lương thực bình thường còn đem lại sức mạnh, niềm vui và hạnh phúc, thì làm sao lương thực thiên thần lại không nhân lên ngàn lần những hiệu quả tốt đẹp tương tự ?![10]  Bởi đó, Thánh Thể góp phần, nếu không nói là nguyên nhân, làm cho cuộc đời thêm tươi sáng. 

Ðó là những hiệu quả vô cùng lớn lao Thánh Thể có thể làm cho cá nhân.  Nhưng không phải chỉ dừng lại ở đó.  Thánh Thể còn có khả năng quy tụ tất cả tín hữu và làm cho họ trở thành một thực tại lớn lao trên thế giới hôm nay và tương lai.[11]   Con mắt đức tin nhìn thấy những nét cực kỳ huyền diệu và sức mạnh vô song của Thánh Thể đang hoạt động trong cộng đoàn Dân Chúa và biến Giáo hội thành một chứng nhân và trung gian hòa giải giữa nhân loại.

Tất cả mọi năng lực Giáo hội đều nằm trong Thánh Thể.  Nhưng không thể quên Thánh Thể là một giao ước.  Ðó là một sáng kiến của Chúa Giêsu, kết quả của một tình yêu nhưng không và vĩ đại.  Nếu Chúa không quan tâm tới phần rỗi đời đời của chúng ta, nhất định Người đã không lập bí tích Thánh Thể.  Nếu không có “bánh hằng sống,” thế gian vẫn phủ màu tang tóc của thần chết và đầy những địch thù Thiên Chúa. Rất may Thánh Thể đã hiện diện để đem lại sự sống và phục sinh những gì đã tiêu vong trong biển trần gian.

Khi rước lấy Thánh Thể, Kitô hữu trở thành Thánh Thể giữa trần gian.  Họ có mặt ở đâu, Thánh Thể hiện diện ở đó.  Thật vậy, “tất cả bản tính nội tại của Giáo hội đều được mạc khải trong Thánh Thể.  Khi tham dự các Mầu Nhiệm Thánh, các tín hữu trở thành ‘các người thân thuộc’ của Chúa Kitô.  Ðồng thời, ngay từ bây giờ họ cảm nghiệm trước công cuộc thần linh hóa trong giao ước đang nối kết bền chặt thiên tính với nhân tính.”[12]  Thật là tuyệt vời ! 

Không phải đợi tới đời sau mới thấy được công cuộc thần linh hóa kỳ diệu trong giao ước đó.  Ngay từ bây giờ, giao ước đó đang tìm thấy bóng dáng  của mình trong giao ước hôn nhân.  Nói khác, giao ước đó củng cố và là mẫu mực cho giao ước hôn nhân.  Nhưng để lập giao ước mới trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu phải đổ đến giọt máu cuối cùng.[13]  Chính vì thế, muốn giao ước hôn nhân tồn tại và sinh hoa kết quả, Kitô hữu cũng phải trả giá bằng chính cuộc sống đầy hy sinh.  Làm sao có đủ đức tin để thấy được tất cả bản chất và vẻ đẹp của giao ước Thánh Thể trong giao ước hôn nhân hôm nay ?  Làm sao có thể xác định vị thế và vai trò của mình để  biến giao ước đó thành hiện thực trong gia đình cũng như ngoài xã hội ?   Khi rước lễ, họ làm mới lại giao ước giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Khi sống đời gia đình, họ làm cho  giao ước mới ngày càng mới hơn.

Lạy Chúa, xin cho con luôn tin tưởng vào giao ước Chúa đã ký kết bằng Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, để mỗi ngày con càng trở nên giống Thánh Thể hơn. Amen.

dzuize@gmail.com

[1] x. Ga 6:53-54.   [2] Mt 26:26-28; x. Mc 14:22-24; Lc 22:19-20; 1 Cr 11:23-25.

[3] x. Ed 5:5; Mt 13:37-38; Ga 15:1, 5.   [4] x. Lc 22:19-20; Mt 26:26-28; Mc 14:22-24; 1 Cr 11:23-25.

[5] x. St 15:9-18; Xh 24:5; New Catholic Encyclopedia 2003:5, 411.

[6] x. Nhóm Phiên Dịch Các giờ Kinh Phụng Vụ : Lời Chúa Cho Mọi Người, tr. 446.

[7] ibid.    [8] x. Ga 6:56-57.   [9] x. Ga 6:57.

[10] Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207: “Thánh Thể duy trì và tăng cường ân sủng trong người rước lễ ; Thánh Thể có quyền tha tội nhẹ và làm cho con người vững mạnh để chống lại tội lỗi ;Thánh Thể là niềm vui thiêng liêng cho những tâm hồn sốt sắng.”

[11] Our Sunday Visitor’s Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. by Russell Shaw, p. 207 : “Thánh Thể làm cho Giáo hội trở thành một cộng đoàn tín hữu, Dân Thiên Chúa, khiến Giáo hội thành toàn như thành đô Thiên Chúa, Giêrusalem mới.”

[12] Gioan Phaolô II : Tông thư Orientale Lumen, 02.05.1995.

[13] x. Mt 26:28; Mc 14:24; Lc 22:20; 1 C 11:25.

 
VỀ MỤC LỤC
CÁI GÌ CÓ THỂ “ĐIỀU KHIỂN” THIÊN CHÚA?

 

Ngày xưa, Ampere, nhà bác học vật lý, điện năng người Pháp đã từng nói với một nhà văn Pháp: “Người ta chỉ có thể vỹ đại bằng lời cầu nguyện”. Tôi hiểu câu nói này của Ampere khi thật sự hiểu rằng, nhờ cầu nguyện, mình bước vào bầu trời vĩnh hằng, là đoạt lấy sự khôn ngoan lớn lao vì đã “chọn lựa phần tốt nhất”, điều mà Chúa Giêsu đã từng nói với Mattha, khi bà lăng xăng với bao nhiêu công việc bếp núc bộn bề.

Hơn thế, tôi hiểu rằng, mình “chỉ có thể vỹ đại bằng lời cầu nguyện”, vì biết rằng, khi cầu nguyện, mình thực sự làm công việc vĩnh hằng trong thời gian và chu toàn công việc thời gian trong vĩnh hằng. Như thế, với đời sống cầu nguyện, tôi quá lời lãi. Không gì có thể sánh nổi với tình trạng no đầy, thỏa mãn của tôi trong giây phút hiện tại: Tôi có Chúa vô song!

I. ƠN HIỆU NGHIỆM CỦA ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN.

Thánh Anphôngsô, thánh Tổ phụ của dòng Chúa Cứu Thế nói: “Ai biết cầu nguyện sẽ được cứu rỗi, còn ai không cầu nguyện sẽ hư mất”.

Thánh Gioan Kim Khẩu còn nói mạnh hơn: “Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.

Thánh Gioan Vianney, quan thầy các linh mục chánh xứ cũng khẳng định không kém: “Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa. Một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói ‘ừ’ khi Ngài đã nói ‘không’”. Lời khẳng định này nhắc ta nhớ lại câu chuyện phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở làng Cana (Ga 2, 1-12). Lúc đó tiệc cưới không còn rượu, Đức Maria ngỏ lời với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi”. Sau lời cầu xin này của Đức Mẹ, Chúa đã trả lời “không” với hai lý do: Việc họ hết rượu “đâu có can hệ gì giữa bà và con”“Giờ của con chưa đến”. Nhưng với đức tin và niềm tín thác trọn vẹn của Đức Maria trong lời cầu nguyện ấy, “buộc” Chúa phải “đầu hàng”. Đức Mẹ nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh phải làm theo”. Ngay lập tức phép lạ đã xảy ra sau khi họ đã vâng theo lệnh của Chúa: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi”“Bây giờ các anh hãy múc mà đem cho quản tiệc”. Lạ lùng quá đỗi, và gây ngỡ ngàng cho mọi người chứng kiến, nhất là người quản tiệc, bởi “nước đã hóa thành rượu”. Không chỉ thành rượu, người quản tiệc còn bị khách mời trách cứ: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh đã giữ rượu ngon cho tới mãi bây giờ”.

Với lời cầu nguyện đầy hiệu lực của Đức Mẹ, Chúa đã làm cho “không” thành “có”. Người biến lời nói “không” thành hành động “có”. Như vậy, chúng ta có thể nói quá lời mà không sợ sai lầm rằng: Nếu ta cầu nguyện với tất cả lòng chân thành, khiêm nhường, tin tưởng, tín thác, thì với ơn Chúa, cầu nguyện làm nên phép lạ. Cầu nguyện lôi kéo ơn Chúa đến cho những ai hướng về Người với lòng thành. Cầu nguyện là toàn năng bởi sự toàn năng của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà chính Chúa đã khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7, 7).

Nhiều lúc, trong đời và trong ngày, ta bồn chồn, đắn đo, không biết phải làm gì cho đẹp, cho đầy. Ngay giây phút này, ta không biết phải làm gì cho hữu ích. Hoặc ngay trong khi làm việc, trong khi đang suy nghĩ, bất chợt nhớ tới Chúa, bất chợt nhận thức mình là Kitô hữu, hãy cầu nguyện ngay. Có thể chỉ là một lời nguyệt tắt (chẳng hạn: Xin cho con yêu Chúa. Xin cho con ý thức con thuộc về Chúa. Xin Chúa chúc lành và thánh hóa con. Con xin dâng lên Chúa giờ này, công việc này, và mọi người thân yêu, mọi người con đang gặp gỡ… Có rất nhiều những lời nguyệt tắt đại loại như thế). Hoặc ta cầm trí đọc kinh Lạy Cha, lời cầu nguyện do chính Chúa Giêsu soạn thảo. Nếu ta thánh hóa chính mình bằng đời sống cầu nguyện như thế, thì ngay công việc này, thời khắc này, sự sống này là đẹp nhất, đầy nhất, sung sướng nhất. Nếu cả một đời ta trung thành làm như thế, thì đời ta là đời đẹp nhất. Bởi chính nhờ sống cầu nguyện, ta kết hợp hoàn toàn với Chúa. Đời sống cầu nguyện ấy là vũ khí giúp ta “điều khiển” Thiên Chúa nại vào tình yêu, nại vào quyền năng vô cùng của Người và nhờ Người cho phép.

II. NHỮNG CHỨNG NHÂN CỦA ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN.

1. Tom Philips.

Tôi không thể nhớ, mình đã đọc đâu đó câu chuyện về người đàn ông 40 tuổi này. Tom Philips từng là chủ tịch một công ty lớn của tiểu bang Massachusettes. Ông sở hữu nhiều xe cộ, nhà cửa sang trọng và có gia đình êm ấm. Nhưng ông không hiểu tại sao, tận thẳm sâu trong tâm hồn, ông vẫn cảm thấy thiêu thiếu một cái gì vừa âm ỷ, vừa xuyên suốt, có lúc như rất mạnh mẽ, như muốn gào thét, muốn nổi loạn.

Nhất là những chiều hôm vắng lặng, trở về với cõi lòng sau một ngày căng thẳng bởi áp lực của công việc, ông thấy lòng mình trống rỗng đến lạ thường. Ông tìm đọc báo, chơi gold…, nhưng tất cả chẳng những không lấp đầy mà hình như vỡ ra thêm, trống rỗng thêm. Ông không thể hiểu được nguyên nhân...

Thế rồi, một ngày kia, ngồi trong một chiếc ô tô sang trọng, trong một chuyến đi công tác xa, bỗng dưng nhìn thấy những người công nhân đang sửa đường đi, dù mệt, nhưng sao họ vẫn vui tươi, vẫn cười đùa thật vô tư. Ông dừng xe ngắm họ. Bất chợt, từ phía xa, trước mặt ông, ông nghe một người trong số những công nhân gọi tên Chúa Giêsu. Thế là danh Giêsu đã ám ảnh ông, đã theo ông suốt chặng đường. Ông bắt đầu suy tư về thánh danh này.

Đường càng xa, ông càng gặm nhấm nỗi cô đơn, sự trống trải của sự giàu sang mà ông đang hưởng. Hóa ra, ông nghèo đến thế. Chẳng có gì cả ngoài công việc, ngoài sự kính trọng đến mức xa cách mà nhiều người dành cho ông, nhất là những người dưới quyền ông, Ngay cả người tài xế đang cùng đồng hành trên xe với ông, cũng xa cách diệu vợi. Hóa ra cái giàu sang đã chôn ông trong nấm mồ của sự nghèo khó, nghèo đến tàn tạ.

Thánh danh Giêsu tự nhiên trở về giữa cõi cô đơn của lòng ông. Bất chợt, ông thốt thành lời, khiến người tài xế phải quay lại nhìn ông: “Chúa Giêsu ơi, Chúa thương con!”. Đơn giản chỉ có thế. Vậy mà tức khắc, lòng ôn hết xao xuyến. Ông cảm thấy như một huyền nhiệm lớn lắm đang len lỏi vào hồn ông. Bàn tay của sự huyền nhiệm ấy dường như đang đưa ra nâng đỡ ông. Ông cảm thấy bình an hơn, hạnh phúc hơn. Bỗng dưng, ông khám phá ra một chân lý lớn không thể tả: Lòng ông lạc lỏng là bởi bao nhiêu năm tháng ông đói Thiên Chúa.

Ông đưa tay khều người tài xế vẫn còn ngơ ngác sau câu gọi Chúa để cầu xin tình thương của Người. Ông càng làm cho người tài xế của ông ngơ ngác hơn, khó hiểu ông hơn khi ông nói với anh: “Bấy lâu nay tôi đói”. “Dạ?”. Người tài xế thảng thốt trong tiếng “dạ” đầy ngỡ ngàng. Anh không hiểu gì cả. Người chủ sang trọng của anh mà đói à? Nếu không như thế, có lẽ ông chủ phải giải quyết quá nhiều vấn đề, nên đầu óc trở nên căng thẳng? Tom Philips từ tốn giải thích: “Bấy lâu nay tôi đói Thiên Chúa!”. Rồi ông thật thà bày tỏ hết nỗi lòng của ông. Lần đầu tiên ông khóc trước mặt tài xế của mình. Kể từ ngày ông thành công trên đường đời, đây là lần đầu tiên ông khóc sướt mướt, mà lại khóc trước mặt một nhân viên nhỏ bé. Nhưng ông cũng không ngờ rằng, những giọt nước mắt của buổi trưa hôm ấy cũng làm lay động tâm hồn của anh tài xế đã nhiều năm không tới nhà thờ, bỏ cả việc xưng tội, rước lễ...

2. Charles Colson.

Là một thương gia thành đạt, giàu có. Ông có một văn phòng cạnh bên Tòa Bạch Ốc, Hoa Kỳ. người ta cho biết, hàng tháng, lợi tức của ông lên đến hàng triệu đô la. Ông yêu mến nghiệp chính trị, đến nỗi, có lần ông cáo nộp và giết chết bà nội, vì bà nội ông thuộc phe nhóm có ý muốn sát hại tổng thống Nixon.

Cũng giống như Tom Philips, tuy giàu có, đời sống vật chất luôn sung túc, thành công trong việc tìm kiếm địa vị, chức quyền… Nhưng ông vẫn cảm thấy thiếu thốn một cái gì, mà không rõ nguyên nhân. Tâm hồn ông như luôn có một hố thẳm, ngày càng khoét sâu thêm do tích lũy những thèm khát chồng chất qua năm tháng mà ông không lý luận nổi, không thể hiểu nổi…

Rồi một ngày của tháng 8. 1979, Colson được gặp Tom Philips. Tom thuật lại cho Colson về tất cả những thao thức, những trăn trở và cả kinh nghiệm riêng tư quý báu, vì được gặp Chúa. Tom nói: “Này Colson, tôi chưa bao giờ bình an và hạnh phúc, cũng như chưa bao giờ thấy mình phong phú như bây giờ. Điều đó chỉ xảy ra kể từ khi tôi gặp gỡ Chúa Giêsu. Tôi đã bắt đầu cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện thật hăng say. Thật lạ thường, lạ thường như phép lạ, mỗi một lần cầu nguyện, tôi thấy mình như sống thêm, đáng yêu hơn, yêu mãnh liệt hơn, vui tươi hơn, mạnh mẽ hơn, muốn vươn tới hơn…”.

Quá bất ngờ khi nghe bạn mình chia sẻ, Colson ngơ ngác. Ông vừa được cuốn hút vào trong kinh nghiệm của Tom Philips, vừa thấy mình như rơi vào một chân trời hoàn toàn mới lạ. Câu chuyện tự thuật về kinh nghiệm thiêng liêng của Tom Philips, đã làm Colson suy nghĩ thật nhiều. Ông lên xe, mà tâm hồn ông dào dạt một nỗi niềm xao xuyến khó tả. Về gần tới nhà, lần đầu tiên sau nhiều chục năm, ông gọi thánh danh Chúa Giêsu thật to: “Giêsu! Giêsu!”. Ông đã làm nhiều người qua lại chưng hửng bởi tiếng la thất thanh: “Giêsu ơi, con khốn khổ quá. Con xa Chúa quá. Xin nghe con! Xin nghe con!…”. Rồi không biết nói gì nữa, ông đã để cho dòng lệ tuôn rơi chan hòa…

Cả Tòa Bạch Ốc nói riêng và cả nước Mỹ nói chung, từ đó thấy một Colson hoàn toàn khác. Người ta nói với nhau: “Ông ấy đã tìm lại đạo rồi”. “Người mà trước đây đã sẵn sàng giết chết bà nội mình, bây giờ đã trở lại…”. Tờ Los Angeles Times đăng dòng tít lớn: “Chàng Colson đã trở lại đạo”. Tờ New York Times cũng báo tin: “Colson đã tìm lại đạo”…

Cả hai, Tom Philips và Charles Colson, cho tới nay, vẫn đi khắp đó đây, truyền rao kinh nghiệm thâm sâu của mình và minh chứng cho mọi người lời cầu nguyện có sức vạn năng cứu thoát. Cầu nguyện là phương thế mạnh nhất đánh vỡ tâm linh chai đá của con người. Nó là cách thế hữu hiệu để Thiên Chúa thực hiện quyền năng của Người trên con người. Nó là sức mạnh đem con người đến gần Thiên Chúa và làm cho Thiên Chúa sống trong lòng con người.

III. KẾT LUẬN.

Hội Thánh có một thanh niên đã từng ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng anh đã trở lại. Hội Thánh đã trao cho anh chức Giám mục. Sau khi Giám mục này qua đời, Hội Thánh lại phong thánh và tặng cho ngài danh hiệu Tiến sĩ của Hội Thánh. Người thanh niên đó, Đức Giám mục đó, chính là thánh Âugustinô.

Trải qua không biết bao nhiêu kinh nghiệm xấu xa và tội lỗi, giờ đây trở về với tình yêu của Chúa, Âugustinô đã cúi mình thật sâu trước hồng ân và tình yêu lớn lao mà Thiên Chúa dành cho ngài. Ngài đã trầm lắng suốt đời trong sự khắc khoải và mê đắm Thiên Chúa. Ngài say Thiên Chúa đến độ thốt lên: “Lạy Chúa, linh hồn con cứ mãi ray rứt, cho đến lúc con nghỉ ngơi trong Chúa, con mới được an lòng”.

Từ kinh nghiệm của thánh Âugustinô và của nhiều người khác trong Hội Thánh, chẳng hạn như Tom Philips hay Charles Colson, ta khám phá ra rằng, thiếu Chúa Kitô trong đời mình, tâm hồn ta chỉ là một tâm hồn dật dờ, mông lung, đói khát khôn nguôi, không một đối tượng trần thế nào có thể thỏa mãn và giải tỏa được. Bởi đói Chúa Kitô, thì chỉ có Chúa Kitô mới thỏa mãn và giải tỏa mà thôi. Nhưng chỉ có tâm hồn chìm lắng trong cầu nguyện mới có thể lấp đầy Chúa Kitô nơi mình.

Vì thế, để cho mình đói Thiên Chúa là một khổ não tận cùng, một thiếu thốn mà không còn có gì thiếu thốn hơn. Hãy nhớ rằng, đời sống cầu nguyện có một uy thế lớn đối với Chúa. Cầu nguyện làm cho Người hạ giáng để được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn ta. Nói mạnh hơn, cầu nguyện là sự “điều khiển” Thiên Chúa, nhờ quyền năng và tình yêu của Người.

Người ta, bạn bè, mọi người quanh tôi đã và đang ở và làm việc nơi này nơi khác. Họ đạt được nhiều thành quả, lợi lộc, tiếng tăm… Còn tôi, nhờ biết sống đời sống cầu nguyện, tôi đoạt được vĩnh hằng trong đời tạm; tôi cảm thức được bình an và hạnh phúc trong từng nhịp sống của đời mình. Như thế, tôi biết rằng, tôi đã chọn phần tốt nhất, không ai có thể đánh đổi vĩnh cửu, bình an và hạnh phúc này của tôi. Đó là chính Thiên Chúa, Đấng vô cùng, và mãi mãi không có cùng trong tôi. Và tôi thấy cái hữu hạn của đời mình, nhờ cầu nguyện, lại được nối dài vào vô biên, nghĩa là được sống trong chính sự sống của Thiên Chúa, có chính Chúa làm gia nghiệp đời tôi.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH
 

VỀ MỤC LỤC
VÀO ĐỜI…

           

Vào đời bằng tiếng khóc,

Khi con được thở hơi trời…

Vào đời, ôi vào đời, vì Chúa đã  thương con…

Vào đời , ôi vào đời, vì Chúa đã chọn con…

                              (Lm. Nguyễn văn Trinh)

Ngày đó đã xa rồi, và rất xa, khi tôi còn trẻ và được tham dự một Thánh Lễ  “Lên Đường” của một nhóm bạn trẻ nam nử  tại một xứ đạo ở Việt nam. Sau Thánh Lể, các bạn  nắm tay nhau và  cùng hát bài “Vào Đời” …Tôi thật cảm động, cảm động  sâu xa, và suốt dọc cuộc đời, mổi khi nghe hát bài “Vào Đời” này, tôi lại xúc động , và nghẹn ngào nhớ đến ngày đó các bạn trẻ   trong  tuổi  thanh xuân đả  cùng nhau “lên đường”…Bây giờ, các bạn đó đang ở đâu, tôi không biết;  đang  lảm gì và sống ra sao, tôi cũng không biết. Đường đời muôn ngả, nhất là sau biến cố 1975, những con chim ‘ra ràng đó’ đã  bay đi muôn  phương và bây giờ đã đến tuổi trưởng  thành…

 Có những bạn  bây giờ có  thể đang là  linh mục, tu sĩ…

 Có những bạn đã lập gia đình và con cái đã lớn khôn…

Nhưng dù ở đâu, trong  địa vị nào, tôi vẫn  tin  rằng  từ  ‘ngày  lên đường’ đó, mỗi bạn đã  cùng  đem  “Chúa vào đời’,   đem Chúa vào  các môi trường, hoàn cảnh xã hội mà các bạn đó sống…

Vâng , mọi người chúng ta đã  vào đời  “bằng tiếng khóc’, tiếng khóc chào đời…Khóc vì ‘vui mừng’ đã được sinh ra đời, sau những ngày tháng  được cưu mang trong lòng mẹ…và  từ đó , chúng ta có một gia đình  êm ấm, có mẹ, có cha, có anh chị em, đùm bọc thương yêu nhau…Đúng là  ‘một mái ấm gia đình’ mà đi đâu chúng ta cũng mong  ước  được chóng trở về  (Home  sweet home!)

Nhưng rồi cũng đến ngày chúng ta  phải rời mái ấm gia đình để ‘vào đời’…

Đối với  chúng ta , những người tin Chúa Kitô,  ngày cha mẹ chúng ta  âu yếm ẵm bế chúng ta đến Thánh đường để được chịu “phép Thanh tẩy” là chúng ta được  chính thức  gia nhập gia đình Giáo Hội Chúa….Rồi  chúng ta lớn lên được chịu các “phép Bí tích” khác để kiện toàn đời sống kitô hữu.  Nhất là  khi chúng ta chịu phép “Thêm sức’,  lĩnh nhận đặc biệt ơn Chúa Thánh Thần,   để đủ  ơn thánh, sức mạnh,  sự khôn ngoan , và  lòng nhiệt thành đem Chúa đến với mọi người và  chu toàn bổn phận của các kitô hữu; vì chúng ta  không phải chỉ ‘giữ đạo’,  nhưng còn phải ‘sống đạo’ và đem Chúa ‘vào đời’ ; đó là bổn phận “SỐNG ĐẠO GIŨA ĐỜI”

 Như chúng ta đều biết, “Sống Đạo Giữa Đời”  là sống làm sao để làm chứng cho Chúa và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa  cho mọi người chung quanh chúng ta trong đời sống hằng ngày  :

“Chúng con sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh  thần khi Ngươi ngự đến trên chúng con và chúng con sẽ làm chứng cho Cha …” (Sách Công Vụ Tông Đồ 1, 8…)

Chúng ta cũng đều biết , công cuộc rao giảng Tin Mừng tình thương của  Chúa  không phải chỉ là bổn phận của  hàng Gíao phẩm, của  các linh mục , tu sĩ nam nữ, mà là  bổn phận của  mọi người con  Chúa;  tất nhiên,  các linh mục, tu sĩ là những người “chuyên nghiệp’ hơn ,vì đã được Chúa gọi để từ bỏ mọi sự  và chỉ “ chuyên lo cầu nguyện và  rao giảng Lời Chúa…” (CVTD 6, 4 ).

 Hơn nữa , các linh mục,  tu sĩ phải sống đời tu trong các Tu viện, các Nhà xứ…không thể sống ngay trong  gia đình ,  khu xóm,  xưởng thợ, xí nghiệp…như gíao dân chúng ta.

 Chúng ta sống  “giữa đời” theo đúng nghĩa của danh từ  đó. Lợi điểm của người giáo dân chúng ta  trong công cuộc ‘làm chứng cho Chúa và rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa’ là hàng ngày  chúng ta  sống  giữa  các môi trường khác nhau nơi  xưởng thợ, xí ngiệp, trường học,  lối  xóm, đường phố, ruộng đồng… và tiếp cận với bao nhiêu người thuộc mọi từng lớp xã hội, chủng tộc, tôn giáo… Đo là những  dịp rất tốt để ‘làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người’ bằng chính đời sống kitô  hữu của chúng ta.

 Ngay  cả khi ở trong các trại tù đầy, lao động khổ sai  ở Việt nam sau  biến cố 1975,  nhiều kitô hữu đã sống  đời sống rất  đàng hoàng , dũng cảm và đã giúp cho  nhiều anh em bạn tù nhận ra ánh sáng Chúa Kitô ,  nhận ra  Phúc âm tình thương của Chúa và tìm hiểu, sau  đó đã học hỏi   giáo lý và xin gia nhập Gíao  Hội Chúa.

Nhiều tín hữu ngoài việc  chu toàn các bổn  phận cầu nguyện tối sáng, đi dâng Thánh Lễ cuối tuần…vẫn hy sinh thời giờ để gia nhập các Đòan thể Công Gíao Tiến Hành, các Phong trào truyền gíao,  các Ca Đoàn, các ban ngành trong Gíao xứ…Mặc dầu bận rộn với bao công việc lo cho gia đình và  làm ăn sinh sống như mọi người, nhưng các anh chị em  đó vẫn hy sinh thời giờ để đi hội họp, học  hỏi, tĩnh tâm để nâng cao đời sống Đức tin và tinh thần truyền gíao cũng như  lòng nhiệt thành  giúp  đỡ các người nghèo khó, bịnh hoạn, gìa yếu... Đó là các anh chi em  đã cố gắng ‘Sống đạo Giữa Đời’ và chu toàn bổn phận   rao giảng Tin Mừng tinh thương của Chúa cho thế gíới hôm nay.

“Ánh sáng của chúng con phải chiếu giãi  trước mặt mọi người, để họ thấy những công việc tốt đẹp chúng con làm, mà ngợi  khen Cha chúng con , đấng ngự trên trời!” (Mattheu 5, 16)

“Anh chị em hãy sống ngay lành  giữa  những người ngoài  đạo Chúa, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh  chị em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh chị em làm, mà tôn vinh Thiên Chúa  trong ngày Người đến viếng thăm!” ( 1 Phêrô 2, 12)

 Vậy chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau :  xin Chúa Thánh thần tràn ngập tâm trí chúng ta, thánh hóa chúng ta, ban lòng nhiệt thành và tình yêu Chúa cho chúng ta, để dù sống ở đâu, nơi thành thị, chốn thôn quê, vùng rừng  sâu, núi thẳm, chúng  ta  vẫn cố gắng là ‘ Chứng Nhân cho Chúa’, là ‘Ánh Sáng của Chúa  chiếu soi con đường Chân lý cho mọi người.      

  Lm. Anphong Trần Đức Phương  

VỀ MỤC LỤC
HÃY VẼ TÌNH YÊU CỦA CHÚA

 

Sau dịp khai trường gần Lễ Tạ Ơn, cô giáo Hoàng, lớp Ba cho các học sinh của mình một đề tài: “Em hãy vẽ một cái gì đó, biểu lộ tình yêu của Chúa dành cho em.” Cô hơi nghĩ ngơị một chút, vì không biết các học sinh nghèo của mình có thể hiểu được rõ ràng về tình yêu Thiên Chúa hay không?

Tất cả các em đầu bắt đầu vẽ: em thì vẽ bát cơm, em thì vẽ con cá, em thì vẽ trái nho v..v…Khi cô xem đến hình vẽ của Hậu, một đứa trẻ có vẻ yếu đuối và nhút nhát, cô Hoàng thấy em vẽ một bàn tay! Cô cầm lên suy nghĩ và giơ cho cả lớp cùng xem. Không khí yên lặng, bất chợt một học sinh nói: “Đó là bàn tay của Chúa mang thức ăn đến cho chúng ta !” Em khác nói: “Đó là bàn tay của những người cấy lúa làm ra thóc gạo cho chúng ta ăn !”

Cô giáo nghiêng người xuống bên Hậu và hỏi em vẽ bàn tay của ai, Hậu trả lời khe khẽ: Thưa cô, đó là bàn tay của cô !” Hoàng nhớ lại những giờ ra chơi, Hậu thường ngồi cô đơn trong phòng học, cô nắm tay em Hậu cũng như các em khác vui chơi, nhưng đối với Hậu, cái nắm tay của cô là hơi ấm nồng nàn của Chúa đến với em.

* Một phút Cảm nghiệm: Nhiều người đến với Giáo hội song họ chưa nhận biết được Chúa ngay vì Ngài là Thần Khí. Nhưng những gì họ thấy trước mắt qua những người đại diện Chúa như Giáo lý viên, hàng Giáo sĩ như: vui vẻ niềm nở, thái độ hòa nhã, quan tâm đến nhau, lời nói nhẹ nhàng, cử chỉ ân cần lịch sự, và giúp đỡ nhau, chính là những bằng chứng hùng để hồn thuyết phục họ.

Đây, bạn chính là đèn để trên giá soi cho hết mọi người, giữa thế gian đầy bóng tối kiêu căng, tham lam, ích kỷ này.

Hãy biến mỗi ngày của bạn thành một món quà sống động là những hành động cụ thể với tha nhân, đó là bạn vẽ nên Tình yêu của ngài trong đời sống. Lời Chúa nhắn nhủ:

“Ánh sáng của anh phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp của anh, mà tôn vinh Cha của anh, Đấng ngự trên trời.”   (Mt 5: 16)

Phó tế: GB Nguyễn Văn Định  *  johndvn@yahoo.com

 

VỀ MỤC LỤC
“XIN CHO CON BIẾT LẮNG NGHE...”

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

 

Chúa Nhật tuần trước, chúng tôi vừa dâng Thánh Lễ xong, rời Nhà Thờ trở lên văn phòng Trung Tâm Mục Vụ, thì chuông điện thoại reo vang. Đầu dây bên kia là cha Nguyễn Minh Hùng, Nhà Thờ Búng, Giáo Phận Phú Cường, ngài xin chúng tôi giúp ngài tư vấn cho một ca Bảo Vệ Sự Sống. Thánh Lễ sáng vừa xong thì một đôi vợ chồng xin gặp ngài, người vợ mếu máo khóc, người chồng thuật lại vắn tắt sự kiện: đi siêu âm ở thị xã Thủ Dầu Một, bác sĩ bảo thai không thấy có vỏ sọ, đề nghị phá thai, hẹn sáng thứ ba xử lý nhanh gọn, không để hậu quả gánh chịu cho gia đình và cho xã hội. Bác sĩ tuyên bố: trước sau gì nó cũng chết mà !

Trời ơi, không biết bây giờ trường Y đào tạo các bác sĩ như thế nào mà những vị này lại có những quyết định và ứng xử với thân chủ của mình như vậy? Chúng tôi chỉ là Linh Mục, không phải là người ngành Y nhưng kinh nghiệm mục vụ Bảo Vệ Sự Sống đã gặp khá nhiều ca tương tự nên chúng tôi trình bày ngay với cha Hùng, xin ngài trấn an đôi vợ chồng đáng thương nọ: thứ nhất, chẩn đoán bằng siêu âm thì dẫu là 4 chiều ( 4 D ) đi nữa thì cũng chẳng ai dám khẳng định độ chính xác 100%; thứ hai, có thế thật đi nữa thì thai mới hơn 3 tháng, vẫn còn cả một thời gian dài để cơ thể tự hoàn thành vỏ sọ, thậm chí có khi sinh ra, phần đỉnh đầu cháu bé vẫn còn thiếu một mẩu xương chỏm, từ từ rồi cũng sẽ đâu ra đấy cơ mà !

Buổi chiều, không ngờ đôi vợ chồng ấy lại chạy xe gắn máy mấy chục cây số về Sài-gòn xin gặp chúng tôi. Họ bảo cha Hùng đã hướng dẫn kỹ lắm nhưng để chắc ăn hơn, ngài dặn: “Cứ về cha Uy, cha có cả một ê-kíp bác sĩ Bảo Vệ Sự Sống sẽ tư vấn cho anh chị tới nơi tới chốn !” Thế là chúng tôi bấm số điện thoại bác sĩ Lan Hải, chị đã hướng dẫn tận tình và chu đáo mọi mặt, kể cả việc thai phụ cần ăn uống sao cho có thể bổ sung chất can-xi rất cần thiết cho việc tạo xương của cháu bé trong dạ mẹ. Tuy nhiên, cái làm cho đôi vợ chồng trẻ người Bình dương ấy rạng rỡ cả khuôn mặt, lau vội nước mắt mà nhoẻn miệng cười tươi chính là việc bác sĩ đã trả lại cho họ chính niềm Bình An mà người đồng nghiệp ngành Y nào đó đã... cướp mất một cách phũ phàng !

Có một chi tiết cha Hùng nói mà chúng tôi thấy rất hay, đó là: các “bác sĩ Bảo Vệ Sự Sống”. Vâng, trong mục vụ Bảo Vệ Sự Sống chúng tôi ngày càng thấy rõ có một sự phân hoá rõ rệt giữa các bác sĩ đứng về phía Bảo Vệ Sự Sống và phía đối nghịch là không ít các nhân viên Y Tế quá dễ dãi khi đưa ra chỉ định cần phải phá thai, và thậm chí, nhiều người “áo blouse trắng” hoàn toàn lạnh lùng vô cảm trước sinh mạng một con người ! Một bạn sinh viên Y Khoa nói với chúng tôi về các bác sĩ chuyên phá thai: “Áo trắng của họ vấy máu của những thai nhi, cha ơi, đến bột giặt Omo siêu tẩy cũng chịu thua !”

Có trường hợp một bác sĩ nổi tiếng Việt Nam về vấn đề chữa trị hiếm muộn, đã giúp cho một đôi vợ chồng có được đứa con đầu lòng như mong ước. Thế rồi họ lại có thai, mà là song thai. Bà bác sĩ đáng kính không ngần ngại ra chỉ định phải phá thai với lý do vết mổ cũ chưa ổn, sinh đôi sẽ gặp nguy cơ cao. Chúng tôi đã thuyết phục được người mẹ giữ lại cả hai cháu bé. Mới đây, chúng tôi được báo tin vui: cháu trai đã chào đời trước, ba ký rưỡi năm mươi, cháu gái theo sau mấy phút, ba ký tư. Mẹ tròn, hai con đều... vuông ! Gia đình tin là phép lạ. Hú vía ! Cứ nghe theo bác sĩ thì bây giờ...

Lại có trường hợp bác sĩ siêu âm cho biết bào thai dư một cặp nhiễm sắc thể, tức là cháu sẽ bị bệnh Down, đề nghị phá thai ngay. Người mẹ hoang mang và đau khổ cứ đến trước hang đá Đức Mẹ cầu nguyện mà đầm đìa nước mắt, ông bảo vệ tò mò hỏi thăm rồi chỉ lên cho chúng tôi tư vấn. Hơn một tháng sau, mới hôm qua, họ đã quay trở lại, khuôn mặt rạng rỡ vui tươi, cứ nắm lấy tay chúng tôi lắc lắc. Một bác sĩ siêu âm khác của Từ Dũ lần này sau khi chọc nước ôi thai đã 15 tuần tuổi, xét nghiệm thật kỹ, khẳng định vừa đúng 23 cặp nhiễm sắc thể, chẳng dư chẳng thiếu, bệnh Down làm gì có ! Hú vía ! Cứ nghe theo bác sĩ thì bây giờ...

Còn nhiều, nhiều ca tương tự như thế, chúng tôi không nhớ hết để kể hết. Tuy nhiên cũng đã đủ để chúng ta cùng nhận định một điều đau lòng rằng: cái “Thiện căn ở tại lòng ta” mà Nguyễn Du từng nói đến trong Truyện Kiều, hiện tại đang trở thành một thứ quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng, đặc biệt ở trong những ngành nghề liên quan trực tiếp đến con người, trong đó đặc biệt là ngành Y !

Nhiều anh chị em độc giả Ephata gửi Mail về có ý trách và can gián chúng tôi: “Sao dạo này ông cứ chĩa mũi dùi vào các bác sĩ, vào nghề thầy thuốc mãi thế ?” Thú thật, chúng tôi nào dám có thành kiến với ai, chính bản thân chúng tôi, gia đình chúng tôi đã chịu ơn các bác sĩ rất nhiều phen thập tử nhất sinh. Dù vậy, những năm tháng này chúng tôi đang dấn thân khá mạnh trong lãnh vực mục vụ Bảo Vệ Sự Sống nên có cơ hội trực tiếp đụng chạm đến các xét nghiệm, các bệnh án, các chẩn đoán y khoa liên hệ đến sinh mạng thai phụ và thai nhi.

Biết rồi mà không nói thì lương tâm lại thấy trăn trở ray rứt, chỉ muốn vấn đề được đánh động thật mạnh trong dư luận. Tất cả phải thấy vấn đề rất dễ dẫn đến tội ác gây tổn thương thân xác và tâm hồn con người. Đâu có đơn giản, đâu có phải chuyện con cá mớ rau, cục gạch hòn đá. Đây là chuyện sống chết một mạng người ! Phía các bác sĩ và nhân viên y tế dứt khoát phải thận trọng hơn trong trách nhiệm chuyên môn và trong tư vấn, phía các thai phụ và gia đình thân nhân thì cần cảnh giác bàn hỏi với nhiều người, nhiều nguồn khác nhau cho chín chắn.

Người ta có khuynh hướng biện hộ bằng những lý lẽ nghe rất nhân đạo: giải quyết ngay từ khi thai nhi còn bé, chứ để sinh ra đời, gây khó gây khổ cho gia đình, thành gánh nặng cho xã hội, mà phá thai như thế chính là điều tốt nhất, nhân đạo nhất cho bản thân đứa bé ! Lập luận như thế rồi người ta nghĩ mình đương nhiên có quyền ra tay xử lý sinh mạng cháu bé.

Cái Thiện căn vừa nêu ở trên ấy, chúng tôi thiết nghĩ, chính là cảm thức thâm sâu về Sự Sống mà mỗi người và mọi người đang thụ đắc, đang sống từng giây từng phút, hít thở, ăn uống, nói cười, làm việc, nghỉ ngơi, yêu và được yêu, hạnh phúc và đau khổ. Sự Sống ấy được viết hoa vì là Quà Tặng vô giá của Thiên Chúa, bắt nguồn từ Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa.

Còn nhớ, khi chúng tôi trò chuyện với người mẹ có bào thai nghi ngờ sẽ bị bệnh Down, chúng tôi nói: “Chị ơi, cho dẫu xét nghiệm là chính xác đi nữa, cháu bé sau này chào đời có bị Down đi nữa, nó sẽ là đối tượng để chính chị là mẹ sinh ra nó, để cha nó, để cả nhà cùng xúm lại mà yêu thương chăm sóc cho nó gấp hai, gấp ba lần những đứa bình thường khác. Và như vậy, chúng tasẽ lại càng được dịp để sống giới luật Yêu Thương Chúa Giê-su đã truyền dạy, để được nên giống với Chúa Giê-su hơn... Thôi chị đừng nghĩ ngợi hoang mang gì nữa, chị đồng ý giữ lại cháu bé nhé !” Chị ấy đã oà khóc, khóc ngay trong niềm Bình An sâu xa chị vừa tìm lại được trong Thánh Ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin đừng để cho tiếng lương tâm của mỗi người chúng con, nhất là các bác sĩ, bị át mất bởi những ồn ào náo động của cuộc đời, của xã hội vị kỷ chỉ biết hưởng thụ hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho Chúa Con mở tai, mở lòng để lắng nghe được những lời thì thầm mách bảo của chính Chúa thông qua những tư vấn của các bác sĩ có lương tâm, các Linh Mục, các chuyên viên Tâm Lý, các anh chị Bảo Vệ Sự Sống, và của tất cả những ai thành tâm thiện chí để không một cháu bé nào, để không một người mẹ đáng thương nào bị xô đẩy đến những nỗi đau tang thương và cái chết oan ức.

Lm. LÊ QUANG UY DCCT, Chúa Nhật 20.8.2006

VỀ MỤC LỤC
Yếu Tố Xã Hội với Sức Khỏe

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, “Sức Khỏe là tình trạng hoàn hảo về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh tật.” Một cơ thể không bệnh tật nhưng sống trong một môi trường xã hội bất ổn định chắc là không thể nào bình an, khỏe mạnh đựơc.

Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới sức khỏe không phải là khám phá mới lạ mà đã đựoc biết tới từ thuở xa xưa. Ðầu thế kỷ thứ 19, các nhà dịch tễ học đã biết được rằng rất nhiều  khó khăn cho sức khỏe đều do những khiếm khuyết xã hội mà ra. Khi các khiếm khuyết này được điều chỉnh thì sức khỏe tốt hơn. Một bằng chứng là, trước khi khám phá ra thuốc trị bệnh lao, tử vong vì lao phổi giảm rất nhiều nhờ các cải thiện về điều kiện sinh sống, dinh dưỡng. Mới đây, kết quả nhiều quan sát, nghiên cứu đã xác nhận các ảnh hưởng này là có thật và rất quan trọng.

Vậy thì các yếu tố đó là gì?

Đó là tất cả các hoàn cảnh không thuận lợi trong đó con người sinh sống và làm việc. Kể ra thì rất nhiều mà các yếu tố chính là: sự bất ổn về kinh tế, xã hội, chiến tranh; các điều kiện không thuận lợi cho sự phát triển của trẻ em; sự không an toàn việc làm cho công nhân; môi trường sinh sống ô nhiễm;  không đồng đều trong việc tiếp nhận chăm sóc y tế;  kém phương thức phòng ngừa bệnh truyền nhiễm; quá nhiều tệ đoan xã hội đưa tới sinh hoạt tình dục bừa bãi, lạm dụng hóa chất có hại, cờ bạc; thực phẩm xấu, dinh dưỡng không đúng cách; kỳ thị chủng tộc, giới tính, tuổi tác...Cá nhân con người không giải quyết hết đựơc các yếu tố này mà đây phải là công việc của tập thể, trên mức độ cộng đồng, quốc gia.

 Hiến chương năm 1948 của Tổ Chức Y Tế Thế Giới cũng đã nhấn mạnh ở lãnh vực này và đã hết sức tiếp tay với các quốc gia hội viên. Một Ủy Ban Quốc Tế về Các Vấn Đề Xã Hội đã đựơc thành lập nhắm vào việc giải quyết các khó khăn này. Vì sự chăm sóc y tế chu đáo có thể kéo dài sự sống trong một số bệnh tật nhưng hoàn cảnh kinh tế xã hội bất ổn lại tạo ra nhiều khó khăn sức khỏe hơn.

Xin cùng tìm hiểu về một số vấn đề này, qua các tài liệu của Tổ Chức Y Tế Thế giới. Ðể gọi là góp ý với giới hữu trách lo việc chăm sóc sức khỏe cho người Việt mình, tại nước ngoài cũng như trong nước. Vì dường như đất nước mình cũng đang có nhiều yếu tố xã hội gây ra ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người dân.

1- Giai tầng xã hội.

Càng nghèo khó, thấp vế trong nấc thang xã hội thì bệnh hoạn càng tăng, càng lâu bình phục và tỷ lệ tử vong cũng cao. Kém kinh tế đã được nêu ra là nguyên nhân của căng thẳng tâm thần, bệnh tim, loét bao tử, tiểu đường loại 2, viêm xương khớp, vài loại ung thư và sớm lão hóa. Kém kinh tế còn khiến người bệnh không được hưởng chăm sóc y tế như những người giầu có.

 Nhà ổ chuôt kém vệ sinh, lương thực không đầy đủ, ít giáo dục thuở nhỏ, gò bó chịu đựng trong những việc làm vừa không an toàn vừa bất trắc, thiếu khả năng nuôi dậy con cái...Tất cả đưa tới căng thẳng tâm thần, xáo trộn gia đình, bệnh hoạn từ khi còn trẻ tới tuổi già.

Ðể giảm thiểu các yếu tố này, chính sách y tế phải nâng cao giáo dục thiếu niên, ồn định việc làm cho dân chúng, giảm cách biệt giầu nghèo cũng như san bằng bất công trong việc chăm sóc sức khỏe toàn dân.

2- Căng thẳng

Các hoàn cảnh tâm lý xã hội xấu có thể tạo ra các căng thẳng triền miên cho con người. Họ sẽ trở nên luôn luôn lo sợ , không đối phó được. Chẳng hạn một việc làm không bảo đảm, một đời sống bấp bệnh, một lo sợ chiến tranh bất ổn xã hội, những thiếu thốn kém dinh dưỡng..Mà triền miên stress là rủi ro đưa tới bệnh tim mạch, tai biến não, suy giảm sức đề kháng của cơ thể, tăng trầm cảm, nhiễm trùng, cao huyết áp, bệnh tiểu đường, mệnh yểu...

Thường thường khi nói tới căng thẳng tâm thần là ta nghĩ tới dùng thuốc an thần, giảm buồn để chữa trị. Nhưng đó chỉ là “ đau dâu chữa đấy”. Chính quyền  phải có chương trình ngăn chặn sự xuất hiện các căng thẳng này cho dân chúng. Bằng hỗ trợ các gia đình có con vị thành niên, khích lệ các sinh hoạt cộng đồng, loại trừ cô lập xã hội, giảm thiều bất công vật chất tinh thần cũng như tăng cường giáo dục, khả năng phục hồi, thích nghi với hoàn cảnh xấu..

3- Chăm sóc thuở ban đầu.

Ðầy đủ dinh dưỡng và an toàn của thai nhi cũng như của đứa bé sau khi sanh có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sức khỏe trong suốt đời người. Khi mà  mẹ  ghiền rượu thuốc thì thai nhi bị nhiều khuyết tật. Sanh ra mà cha mẹ nghèo túng  không đủ tiền nuôi nấng dậy dỗ con cái thì  con hay bệnh hoạn, chậm phát triển cả trí tuệ lẫn thể chất. Và tới tuổi cuối đời thì cũng chịu nhiều ảnh hưởng xấu.

Do đó, chính quyền cần có các chương trình bảo trợ mẫu nhi, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho mẹ và con; hướng dẫn quần chúng về giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật; mở rộng giáo dục học đường để mọi trẻ em có cơ hội học tập, mở mang kiến thức.

4- Ðặc quyền xã hội.

Ðời sống sẽ rút ngắn khi mà phẩm chất của cuộc sống giảm. Sự nghèo khó, kỳ thị và đặc quyền xã hội có ảnh hưởng lớn tới tình trạng sức khỏe và đưa tới tử vong non. Nghèo khó vẫn tồn tại ở các quốc gia giầu có, phát triển. Người vô gia cư sống lang thang trên hè phố, dân thất nghiệp, nhóm thiểu số, dân tỵ nạn, người tàn tật, thất nghiệp..đều dễ dàng bị suy yếu, bệnh tật.

Ngay tại các quốc gia giầu có nhất, người giầu hơn sẽ sống lâu hơn và có ít bệnh tật hơn là người nghèo. Sự khác biệt này  là một  bất công xã hội quan trọng và phản ảnh một số trong nhiều ảnh hưởng quan trọng nhất trên sức khỏe tại các quốc gia tiến bộ. Lối sống, điều kiện nơi ở, và nơi làm việc có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe và tuổi thọ.

Một chính sách công bằng xã hội về lương bổng, sự dễ dàng có việc làm, giảm nghèo khó, giảm bất công xã hội, phổ biến y khoa phòng ngừa, nâng cao giáo dục quần chúng... đều giúp con người có sức khỏe tốt hơn.

5- Việc làm.

Các căng thẳng, khó khăn trong việc làm đều là rủi ro của gia tăng bệnh tật. Thoải mái trong việc làm giúp công nhân có sức khỏe tốt hơn.

Căng thẳng có thể là do làm việc quá sức, làm nhiều giờ, công việc không thích hợp với khả năng, không được góp ý kiến vào thiết lập kế hoạch việc làm, môi trường làm việc có nhiều nguy hiểm, không được hướng dẫn về việc làm, không được đối xử xứng đáng với chức vụ...

Chủ nhân có bổn phận cung cấp cho công nhân việc làm và nơi làm việc an toàn; công nhân cần được góp ý vào bản chất của công việc; chế độ thăng thưởng phải công minh, quản trị hữu hiệu; nơi làm việc có dịch vụ y tế tối thiểu để chăm sóc sức khỏe nhân viên, có tư vấn xã hội để giúp nhân viên giải quyết vấn đề liên quan tới việc làm và gia đình; thời khóa biểu làm việc thích hợp với khả năng và sức khỏe công nhân..Nếu công việc an toàn thì không những sức khỏe công nhân được bảo vệ mà năng xuất sản xuất cũng gia tăng, mang lại nhiều lợi nhuận cho chủ nhân.

6- Tình trạng thất nghiệp

Sự lo sợ sẽ bị mất việc làm và sống trong tình trạng thất nghiệp gây ra nhiều ảnh hưởng xấu cho sức khỏe không những của công nhân mà cả gia đình họ nữa. Thất nghiệp đưa tới khủng hoảng tài chính, nợ nần, đời sống vật chất suy giảm, thiếu dinh dưỡng, suy nhược dễ bị bệnh tâm thần cũng như thể chất.

Chính quyền cần có các chính sách ngăn ngừa thất nghiệp, giảm thiểu khó khăn của công nhân khi mất việc bằng trợ cấp xã hội và tạo công ăn việc làm cho nhân dân.

7- Tương quan hỗ trợ xã hội

Con người không những không thể sống lẻ loi trong cộng đồng mà còn cần sự hỗ trợ của cộng đồng này.  Sự cô lập với xã hội đưa tới trầm cảm, buồn phiền, bệnh hoạn kinh niên, sớm tử vong.

Nghiên cứu dịch tễ cho hay, quan hệ bạn bè tốt, sự hỗ trợ xã hội thắm thiết đều nâng cao sức khỏe tại nhà, nơi làm việc cũng như trong cộng đồng.

8- Ghiền rượu thuốc.

Lạm dụng rượu, thuốc lá, thuốc cấm nâng cao tỷ lệ tử vong vì bệnh tật, tai nạn. Dùng thuốc rượu có thể tạm thời giải tỏa khó khăn về tinh thần, kinh tế nhưng trong trường kỳ,  vấn đề lại trầm trọng hơn. Rượu đưa tới ung thư gan; thuốc là gây ung thư phổi; thuốc cấm tạo bệnh tâm thần. Ngoài ra ảnh hưởng xấu của rượu thuốc cũng đưa tới  xáo trộn gia đình, tội phạm xã hội.

9- Thực phẩm

Dinh dưỡng đầy đủ là yếu tố căn bản cho một sức khỏe tốt. Thiếu thực phẩm các loại đưa tới suy dinh dưỡng và một số bệnh tật. Mà ăn uống quá độ lại đưa tới nhiều bệnh về tim mạch, tiểu đường, ung thư, mập phì, sâu răng. Thực phẩm có nhiều chất béo, đường tinh chế gây ra mập phì nhiều hơn, nhất là ở lớp người kém lợi tức. Lý do là dân nghèo tiêu thụ nhiều thực phẩm chế biến hơn là thực phẩm tươi.

Nhà hữu trách cũng như xản xuất thực phẩm cần lưu ý cung cấp thực phẩm tươi nhiều chất dinh dưỡng cho mọi từng lớp dân chúng không phân biệt giầu nghèo; cung cấp các thông tin về thực phẩm, cách thức nấu nướng, chế độ dinh dưỡng đúng đắn cho mọi người; hỗ trợ sự nuôi trồng sản xuất  để bảo vệ giá trị tự nhiên của thực phẩm..

Kết luận.

Trên khắp thế giới, còn rất nhiều người kém may mắn, không nhận được sự chăm sóc y tế đầy đủ, nên dễ mang bệnh và sớm mệnh một hơn là người có ưu thế xã hội. Các bất công này ngày càng gia tăng mặc dù chúng ta đang sống vào giai đoạn toàn cầu hóa  về mọi lãnh vực. Trong khi đó thì các chính sách y tế đều tập trung vào giải quyết vấn đề bệnh tật mà ít để ý tới môi trường xã hội. Vì thế, nhiều khó khăn cho sức khỏe vẫn tồn tại.

Cộng đồng người Việt sống  ở nước ngoài được chung hưởng quan tâm về chăm sóc y tế với dân bản xứ, nên cũng phần nào an tâm về các yếu tố xã hội tác dụng trên sức khỏe.

 Riêng tại Việt Nam, từ nhiều năm qua, các giới chức y tế xã hội cũng đã đề cập tới  những vấn nạn này, nhất là sự chênh lệch giầu nghèo giữa thành thị và thôn quê cũng như quá ưu đãi của giới có quyền hành. Vào hai ngày 4 và 5 tháng 3 năm 2006,  Cơ quan Y Tế Thế Giới đã giúp Việt Nam tổ chức một hội thảo tại Hà Nội để thảo luận, tìm hiểu và thiết lập các chương trình đối phó với những yếu tố xã hội có tác dụng xấu. Hy vọng rằng các  chương trình này sẽ thực tế, phù  hợp với hoàn cảnh sinh sống dân chúng. Rồi cần áp dụng đúng đắn, tới nơi tới chốn với sự kiểm tra theo dõi kết quả nghiêm chỉnh. Đúng thì tiếp tục. Sai thì can đảm nhận trách nhiệm rồi sửa đổi.

Và nhất là phải nghe phản ảnh từ quần chúng, đối tượng chính của các chương trình phục vụ.

Vì ý dân là ý trời vậy.

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức   Texas-Hoa Kỳ
 

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************